Dàn ý và top 100+ bài văn phân tích chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) hay, ngắn gọn

Trong bài viết hôm nay mình sẽ chia sẻ với các bạn dàn ý và một số bài văn phân tích chiếc thuyền ngoài xa hay, ngắn gọn nhất nhé.

1. Dàn ý bài phân tích chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)

Dàn ý bài phân tích chiếc thuyền ngoài xa

 

Mở bài

 

- Nguyễn Minh Châu là một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”. Ông không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của nhà văn, luôn thiết tha truy tìm những hạt ngọc ẩn giấu nơi bề sâu tâm hồn.

 

- Chiếc thuyền ngoài xa in trong tập Bến quê, tác phẩm đem đến cái nhìn đúng đắn về cuộc sống và con người.

 

Thân bài

 

1. Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh

 

a. Phát hiện “cảnh đắt trời cho”

 

- Phùng là người say mê nghệ thuật trong một thoáng nhìn anh đã phát hiện ra cảnh đắt trời cho để chớp lấy,

 

+ Nhận xét “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích. Đây là cảnh tượng kì diệu của thiên nhiên, cuộc sống khi nhìn từ xa.

 

+ Phùng bối rối trước cái đẹp: “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, anh nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật.

 

b. Phát hiện bức tranh cuộc sống đầy nghịch lí

 

- Từ chiếc thuyền nhỏ đẹp đẽ vừa rồi, Phùng nhận thấy:

 

+ Người đàn bà thô kệch xấu xí, mặt đầy sự mệt mỏi bước ra và một lão chồng với tấm lưng rộng, mái tóc tổ quạ, đôi mắt độc dữ cùng bước ra từ con thuyền.

 

+ Lão chồng “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”.

 

+ Trong khi ấy, người đàn bà chỉ cam chịu, không kêu van, hay chống trả, chạy trốn.

 

- Thái độ của Phùng: “kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Phùng ngỡ ngàng nhận ra bản chất thực sự của cái đẹp anh vừa bắt được.

 

- Nhận xét: đừng nhầm lẫn giữa hiện tượng bên ngoài và bản chất bên trong

 

2. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện

 

- Khi chánh án Đẩu đề nghị chị nên li hôn, chị ta van xin “con lạy quý tòa ...đừng bắt con bỏ nó”, theo chị:

 

+ Người đàn ông bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác, anh ta chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Người chồng là chỗ dựa khi có biển động.

 

+ Chị không thể một mình nuôi nấng trên dưới 10 đứa con, vả lại “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái vui vẻ, hòa thuận”.

 

- Qua câu chuyện và thái độ của người đàn bà, có thể nhận thấy người đàn bà là hiện thân cho kiếp người bất hạnh bị cái đói khổ, cái ác và số phận đen đủi dồn đến chân tường. Nhưng ở chị ta lại có một tâm hồn vị tha, tình yêu thương tha thiết và là người từng trải, sâu sắc.

 

- Thái độ của chánh án Đẩu và nhiếp ảnh Phùng khi người đàn bà quyết không bỏ chồng:

 

+ Cả hai đều thấy giận dữ và bất bình

 

+ Nhưng sau khi nghe tâm sự của người đàn bà anh ta thấy như có “một cái gì vừa mới vỡ ra”.

 

- Nhận xét: Ban đầu, họ quen nhìn đời bằng con mắt đơn giản một chiều (nghĩ đơn giản rằng những kẻ đi theo ngụy là xấu “lão ta hồi 75 có đi lính ngụy không?”), chỉ biết qua lí thuyết sách vở, không sẵn sàng đối mặt với nghịch lí cuộc đời.

 

- Bài học rút ra: phải có cái nhìn đa diện về cuộc sống, không nhìn hiện tượng đánh giá bản chất.

 

3. Tấm ảnh được chọn

 

- Nghệ sĩ Phùng vẫn mang tấm ảnh đó về tòa soạn, quả nhiên tâm ảnh đã được chọn, được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật:

 

- Phùng vẫn luôn nhận thấy trong bức ảnh của mình:

 

+ “cái màu hồng hồng của sương mai” (biểu tượng cho nghệ thuật) và người đàn bà nghèo khổ bước ra từ bức tranh (hiện thân cho đời thực).

 

- Nhận xét: nghệ thuật chân chính không bao giờ tách rời khỏi cuộc sống.

 

Kết bài

 

- Nêu cảm nhận riêng về tác phẩm.

 

- Giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện đặc sắc, cốt truyện hấp dẫn. Khắc họa nhân vật sắc sảo, điểm nhìn trần thuật linh hoạt, ...

 

- Tác phẩm đã đem đến bài học về cách nhìn cuộc sống và con người: phải nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện bản chất đằng sau vẻ bề ngoài của hiện tượng.

 

2. Sơ đồ tư duy bài phân tích chiếc thuyền ngoài xa

Sơ đồ tư duy bài phân tích chiếc thuyền ngoài xa

 

phân tích chiếc thuyền ngoài xa

Sơ đồ tư duy bài phân tích chiếc thuyền ngoài xa

 

3. Top 100+ bài mẫu phân tích chiếc thuyền ngoài xa hay, ngắn

Bài văn mẫu: Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa 

 

     Nguyễn Minh Châu là một trong những cây văn viết văn xuôi giàu chất thơ và dằm sâu chất triết lý. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác mang hơi hướng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu mà qua đó ông còn thể hiện được nhiều triết lý, ý nghĩa qua những hình ảnh nhỏ.

   

  “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm có tình huống truyện rất độc đáo. Nó được thể hiện qua những phát hiện chân thực của nhân vật Phùng. Tình huống truyện đầy bất ngờ và chứa nhiều câu chuyện mà qua đó tạo bước ngoặt trong nhận thức của nhân vật về nghệ thuật và cuộc sống.

 

   Phát hiện đầu tiên dưới con mắt của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là một bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ. Sau một tuần kiên nhẫn phục kích làm việc nhưng Phùng vẫn chưa chụp được một bức ảnh ưng ý thì trong một buổi sáng sương mù, lác đác mấy hạt mưa Phùng đã có dịp ghi lại những cảnh đẹp thiên nhiên chân thực. Đó là hình ảnh một chiếc thuyền lưới vó, đó là bầu sương mù trắng như sữa và có vài bóng người… Những hình ảnh hiện lên vô cùng đơn giản và bình dị. Dường như tác giả rất dụng công trong việc tỉ mỉ điều khiển đội quân ngôn ngữ của mình.

 

    Qua đó thấy được sự tài hoa của ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong việc tả cảnh cùng với việc sử dụng nghệ thuật so sánh đầy tài ba, từ láy có giá trị gợi hình rất cao giúp nhà văn chạm khắc được một bức tranh bằng ngôn ngữ tuyệt mĩ, chân thực và sinh động. Dường như ngòi bút Nguyễn Minh Châu còn đang tranh tài với tạo hóa để rồi ngoại cảnh kia hóa thân trong những trang văn rất đẹp của Nguyễn Minh Châu. Đây cũng là niềm vui, sự hứng khởi của nhân vật Phùng sau những ngày ròng rã chưa tìm được những chi tiết đắt giá, bức ảnh mà mình ưng ý. Có lẽ vì thế mà khiến anh bấm máy liên tục để ghi lại khoảnh khắc hạnh phúc, đẹp rạng rỡ này của thiên nhiên.

   

  Sau bức tranh thiên nhiên rạng rỡ ấy thì cũng là khi nhân vật Phùng tiếp tục phát hiện ra đằng sau nó là một bức tranh cuộc sống đầy nghịch lý. Lúc này, nhân vật Phùng đứng với cự ly gần hơn nên có thể nhìn rõ được hình ảnh người phụ nữ trạc ngoài 40 tuổi, cao lớn, thô kệch, mệt mỏi sau một đêm thức trắng. Còn người đàn ông kia với tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, chân đi hình chữ bát… Một hình ảnh hiện lên không có tính thẩm mỹ với sự thật trần trụi của cuộc sống hiện tại. Với những hình ảnh này nó đối lập hoàn toàn ngược lại với bức tranh tuyệt bích mà trước đấy nhân vật Phùng đã phát hiện. Đoạn văn miêu tả hành động cục súc mà người đàn ông vừa đánh vừa nguyền rủa người đàn bà.

  

   Trái lại, người đàn bà kia không có ý thức phản kháng mà cam chịu và không hề chống trả. Chưa dừng ở đó, tiếp tục hành động tát vào mặt những đứa trẻ. Đây đều là những hình ảnh xấu xí, phi nhân tính, phi đạo đức của cuộc sống và để lại nhiều ngỡ ngàng cho nhân vật Phùng. Anh không chỉ ngạc nhiên, giận dữ còn tỏ thái độ bất bình, ”vứt chiếc máy ảnh xuống đất định ngăn cản”… Nhưng chưa kịp thực hiện thì anh đã bị Phác lao tới ngăn cản. Qua đó, thấy được ở Phùng không chỉ là người nghệ sĩ yêu cái đẹp mà anh còn thể hiện là người dám lên án cái xấu, ngăn chặn cái xấu lại.

 

    Cũng chính những phát hiện đắt giá của nhân vật Phùng qua bức tranh cuộc sống đầy nghịch lý ấy mà Nguyễn Minh Châu cũng thể hiện được thông điệp đó là: Đằng sau cái đẹp không phải bao giờ cũng là cái thiện, cái đạo đức mà có cả những xấu xa, bất công. Và để có những phát hiện đầy đủ nhất thì người nghệ sĩ phải khám phá về mọi mặt để hiểu và trân trọng những thứ chân thực ở cuộc sống.

  

   Từ những phát hiện ấy mà Nguyễn Minh Châu còn hé mở và gieo vào lòng người đọc những nội dung mang tính triết lý hơn qua cảnh người đàn ông bạo hành những đứa trẻ nhỏ. Đó là một vấn đề rất đáng được quan tâm và là chi tiết đắt giá của toàn bài. Vấn đề bạo lực gia đình dường như vẫn còn nhen nhóm trong lòng tác giả. Thông qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu cũng thể hiện thông điệp của cuộc sống. Tác giả lên án thói vũ phu, tàn bạo của người đàn ông và ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, lên tiếng bảo vệ cuộc sống tương lai cho những đứa trẻ khi phải sống trong cảnh bạo lực.

 

Bài văn mẫu: Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa 

 

     Nguyễn Minh Châu là người mở đường tinh anh cho thời kì đổi mới. Cả đời ông cầm bút lúc nào cũng trăn trở về số phận của con người và trách nhiệm của người nghệ sĩ với những số phận ấy. Sau thập kỉ 80 với tài năng của mình Nguyễn Minh Châu đã trở thành một người tiên phong cho văn học thời kì đổi mới. Trong giai đoạn này ông khám phá con người trong cuộc đời mưu sinh và trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc. Tiêu biểu cho những kiếm tìm đề tài và trách nhiệm của người nghệ sĩ là tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa.

  

   Chiếc thuyền ngoài xa được viết vào tháng 8/1983, tác phẩm ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt. Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước thống nhất trong nền độc lập, nhiều vấn đề của cuộc sống trước đây do hoàn cảnh của chiến tranh chưa được đặt ra. Tác phẩm ra đời như một tất yếu khách quan, văn học phải đổi mới do những tác động của đời sống chính trị kinh tế văn hóa xã hội.

   

  Trước hết tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh tuyệt đẹp với người nghệ sĩ Phùng. Đây là một tình huống truyện nhận thức mang tính khám phá mà qua đó ta thấy được biết bao nhiêu là điều trong cuộc sống này. Trong bộ lịch năm ấy cấp trên có giao cho Phùng đi chụp một bức ảnh thuyền và biển. Chính vì thế mà Phùng có cơ hội được đi thực tế tại vùng biển kia nơi có người bạn của mình ở đó. Khi đến đây anh bắt gặp một bức tranh tuyệt đẹp đó là hình ảnh của thuyền và biển trong sương sớm. Nhưng trong bức tranh ấy Phùng lại tìm ra hai phát hiện.

    

 Phát hiện thứ nhất là khung cảnh thiên nhiên hoàn mĩ. Người nghệ sĩ Phùng phát hiện ra một vẻ đẹp trên mặt biển mờ sương. Đó là cảnh thuyền và biển. Cảnh tượng ấy khiến cho người nghệ sĩ cảm thấy may mắn và hạnh phúc khi được chứng kiến một bức tranh tuyệt vời đến như vậy. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một họa sĩ thời cổ”. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe… chiếu vào”. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con đang dần tiến vào bờ.

    

 Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến màu sắc ánh sáng đều hài hòa với nhau làm nên một vẻ đẹp toàn bích. Tác giả gọi đó là cảnh “đắt” trời cho, vẻ đẹp mà trong cuộc đời diễm phúc lắm may ra bắt gặp được một lần. Nghệ sĩ Phùng tự nhận ra rằng cái đẹp chính là đạo đức. Trước bức tranh mực tàu ấy Phùng cảm thấy bối rối, trong tim anh như có cái gì đang bóp chặt lấy. Đó là khoảnh khắc trong ngần của cuộc đời. Anh nhanh chóng nhấc máy ảnh lên và chụp lại khoảnh khắc ấy. Phải chăng cái đẹp đã thanh lọc tâm hồn anh?

   

  Thế nhưng cảnh càng đẹp bao nhiêu thì thực tế cuộc sống lại đen tối bấy nhiêu. Đó chính là phát hiện thứ hai của Phùng trước khung cảnh tuyệt vời ấy. Hiện thực nghiệt ngã của con người với số phận bất hạnh của những con người nơi đây đặc biệt là người đàn bà hàng chài hiện lên. Bước ra chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy là người phụ nữ xấu xí và người đàn ông hung dữ. Chính khuôn mặt nét người của họ đã nói lên phần nào cái cuộc sống khổ cực mà họ phải chịu. Người đàn bà ấy mặt thì dỗ, quần áo thì bạc phếch như bao nhiêu sương gió nắng mưa của đất trời chiếu thẳng vào người đàn bà ấy vậy. Còn người đàn ông thì cũng chẳng hơn gì. Ông ta đi chân chữ bát và có vẻ rất hung dữ. Một cảnh tượng diễn ra khiến cho nghệ sĩ Phùng không thể nào tin vào mắt mình và cái cảnh đẹp kia bỗng chốc biến thành một hình ảnh vô cùng thậm tệ. Hai con người khổ sở ấy đi vào phía bãi xe tăng hỏng và thật bất ngờ trước cảnh tượng ấy. Người đàn ông rút thắt lưng ra đánh tới tấp vào mặt người đàn bà khốn khổ kia. Phùng như không tin vào mắt mình. Khi ấy một thằng bé tên Phác chính là con của hai người ấy nhảy lên đánh vào mặt bố mình. Nó thậm chí còn muốn giết ông ta. Thế rồi nó bị bố tát cho một cái và ông ta bỏ ra ngoài thuyền trước. Những giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài nhỏ xuống lấp đầy những nốt dỗ chằng chịt kia.

 

 

phân tích chiếc thuyền ngoài xa

phân tích chiếc thuyền ngoài xa

 

     Với hai phát hiện ấy Phùng chợt nhận ra rằng cuộc đời không đơn giản xoay một chiều mà chứa nhiều nghịch lý ngang trái. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, đẹp và xấu, thiện và ác. Ở đây nhà văn khẳng định đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngoài với nội dung bên trong. Khi nhìn nhận đánh giá cuộc đời thì phải có cái nhìn đa chiều nhiều phía.

   

  Chứng kiến cảnh ấy Phùng về nói với người bạn mình và hăng hái muốn chính quyền địa phương giải quyết vấn đề cho người phụ nữ ấy. Phùng và Đẩu đều có ý tốt mong cho người phụ nữ ấy thoát khỏi người chồng vũ phu. Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện theo lời mời. Ban đầu chị tỏ ra rất sợ hãi khép nép sau khi nghe những phân tích và sự giúp đỡ của Đẩu thì chị bỗng bình tĩnh và thay đổi cách xưng hô không còn khép nép nữa mà nói ra những tâm sự những suy nghĩ của bản thân mình. Chính vì thế mà Đẩu và Phùng như mở ra cho mình biết bao nhiêu điều chưa biết trong cuộc sống này.

    

 Người đàn bà kể lại rằng cuộc đời mình trước kia cũng là một người con nhà khá giả thế nhưng sau một trận thủy đậu làm cho bà dỗ hết mặt không ai thèm lấy bà. Khi ấy ông chồng của bà lại là người làm vườn. Bố mẹ mất đi người đàn ông ấy đã cứu vớt cuộc đời của bà chính vì thế mà bà bị đánh đập nhưng cũng không nỡ bỏ người chồng đồng thời cũng là ân nhân của mình. Hiện giờ cuộc sống của bà khổ về cả vật chất lẫn tinh thần. Gia đình bà sống cùng nhau trên một con thuyền nhỏ. Con thuyền ấy vừa là phương tiện kiếm sống lại vừa chính là nhà của gia đình bà. Về tinh thần thì bà thường xuyên bị đánh đập, ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng. Thế nhưng bà lại không hề chống lại chồng mình. bà coi một việc bị đánh là một chuyện đương nhiên. Khi nghe những lời khuyên của Đẩu và Phùng thì bà biết lòng tốt của họ nhưng bà không thể bỏ chồng được vì người chồng là chỗ dựa tinh thần lớn nhất của gia đình nhất là khi phong ba bão táp. Người đàn bà cần chồng vì còn phải nuôi những đứa con kia. Và hơn nữa trên thuyền cũng có những lúc gia đình hạnh phúc vui vẻ. Bà cho đẻ nhiều con là cái tội của mình.

     

Từ đó cho thấy bà tuy là một người phụ nữ không học hành nhưng lại có một trái tim nhân hậu tiêu biểu cho nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Bà chấp nhận hi sinh để sống cho các con cho chồng mình, muốn để cho chồng được hả cơn giận, vả lại chính cuộc sống nghèo khổ kia đã làm người chồng như thế chứ ngày xưa ông ta vốn là một người rất hiền lành. Qua đó ta cũng thấy được cuộc sống làm cho con người ta thay đổi rất nhiều.

     

Trước những lẽ ấy thoạt đầu Đẩu và Phùng nghiêm nghị thấy bất bình nhưng về sau thì như vỡ lẽ ra nhiều điều. Cuộc sống này không chỉ sống cho riêng mình hay nó vốn là cái mình nhìn thấy trên bề nổi mà nó là phần chìm bên trong câu chuyện kia. Đó mới là cái giá trị đích thực của cuộc sống này. Từ một người đàn bà nhút nhát sợ hãi người đàn bà trở nên sâu sắc làm cho hai người đành phải để người phụ nữ ấy về với gia đình mình.

     

Câu chuyện kết thúc khi tấm lịch năm ấy trong bức tranh thuyền và biển Phùng lại thấy một màu hồng nhỏ trong bức ảnh đen trắng ấy. Phải chăng đó chính là người phụ nữ hàng chài kia, bà hiện lên với vẻ đẹp của một tâm hồn chịu thương chịu khó hi sinh cho con mình. Tóm lại qua phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu gửi đến cho người đọc thông điệp rằng phải nhìn mọi thứ theo đa chiều chứ không nên nhìn mọi thứ một phía. Đồng thời cần phải chống lại nạn bạo lực gia đình.

 

Bài văn mẫu: Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa

   

  Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) là nhà văn quân đội. Ông là một trong những cây bút tiên phong của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới (cuối thế kỉ XX).

   

 Những tập truyện ngắn: "Người đàn bà trên chuyến tốc hành", "Bến quê", "Chiếc thuyền ngoài xa", "Cỏ lau",... đã thể hiện tài năng nghệ thuật đặc sắc, im đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu.

    

 Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" được tác giả viết vào năm 1983, xuất bản năm 1987. Nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, chánh án Đẩu, người đàn bà thuyền chài mặt rỗ và thằng bé Phác là những nhân vật được tác giả khắc hoạ khá sắc sảo, để lại cho người đọc bao ấn tượng, bao ám ảnh về màu sắc lãng mạn của nghê thuật và sự thật trần trụi của đời thường.

    

 Nghệ sĩ Phùng đã "vác" máy ảnh trở lại vùng biến nơi chiến trường cũ của anh thời đánh Mĩ. Cảnh biển buổi sáng có sương mù mà anh "phục kích" mấy buổi sáng vẫn chưa tìm ra. Anh háo hức muốn thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh thì sáng nay anh đã gặp "hên" một cảnh "trời cho", có lẽ suốt một đời cầm máy chưa bao giờ dám mơ tưởng đến. Đó là cảnh "thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi...".

   

  Trong ánh mắt của người nghệ sĩ, Phùng cảm thấy trước mặt mình là "một bức tranh mực tầu của một danh hoạ thời cổ". Bao mĩ cảm đã dâng lên dào dạt trong lòng, anh xúc động "bối rối", và trái tim của anh "như có cái gì bóp thắt vào". Đối diện với bức tranh "thật đẹp và toàn bích" ấy, nghệ sĩ Phùng cảm thấy vô cùng hạnh phúc, anh mới thấm thía "bản thân trong cái đẹp chính là đạo đức" như ai đó lần đầu đã phát hiện ra; trong giây phút bối rối đó, anh " vừa khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn". Cái đẹp và nghệ thuật đã thanh lọc tâm hồn người, làm cho hồn người trở nên thấnh thiện. Và khi đã chạm tới gấu áo của vị thần nghệ thuật, Phùng đã bấm "liên thanh" một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca. Cái khoảnh khắc ấy đối với anh là vô cùng hạnh phúc, và anh đã "ngộ" ra - "hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại". Có một điều mà bạn đọc cần lưu ý, đó là nơi nhà nhiếp ảnh ngồi bấm máy. Chẳng phải Lầu Hoàng Hạc, chẳng phải là một chốn Bồng Lai mà chí là một bãi biển còn đầy tàn tích chiến tranh với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn của công binh Mỹ thua chạy bỏ lại. Phùng ngồi bấm máy phải "rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa". Chi tiết này rất quan trọng, nó cho thấy cảnh biển mù sương và con thuyền trong bình minh tuy có đẹp, nhưng cái đẹp ấy chưa trọn vẹn. Vết thương chiến tranh còn in hằn trên bãi biển và trong lòng ngư dân. Chỉ vì Phùng, với tâm hồn lãng mạn của người nghệ sĩ, anh mới thi vị hóa, thần tiên hoá hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, để rồi sau đó, anh sẽ bị hẫng.

   

  Một tình huống đầy bi kịch đã xảy ra. Một cảnh đời ngang trái, quá phũ phàng và vô cùng tàn nhẫn đã diễn ra khi chiếc thuyền "đâm thẳng" vào bờ, vào ngay trước chỗ nhà nhiếp ảnh đứng. Phùng không chỉ nhìn thấy, được chứng kiến mà còn được tham dự vào những chuyện trớ trêu, đau lòng. Còn đâu nữa cái màu trắng, màu hồng của bức tranh "toàn bích" khi một người đàn ông và một người đàn bà rời thuyền lội qua một quãng bờ phá đi lên bãi cát. Một tiếng nói chõ như quát cất lên: "Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày bây giờ". Người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi, cao lớn, thô kệch, rỗ mặt, mệt mỏi, tái ngắt... Người đàn ông đi sau "lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền; mái tóc tổ quạ, chân chữ bát, lông mày cháy nắng, rủ xuống",... Lão đàn ông con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân ướt sũng của người đàn bà".

    

 Những gì xảy ra đã xảy ra sau đó. Bãi cát, nơi xác chiếc xe rà phá mìn đã trở thành nơi hành tội. Khi người đàn bà "đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng" (có thể người mẹ nhìn mấy đứa con) thì một sự việc diễn ra vô cùng khủng khiếp! Lão đàn ông "trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay", hắn lồng lên như một con thú dữ. Lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, cái vũ khí thường ngày của kẻ gần như mất hết cả nhân tính, "quật tới tấp vào lưng người đàn bà". Hắn "vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két". Lão "trút cơn giận như lửa cháy" vào người đàn bà tội nghiệp, đáng thương. Lão nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!". Mày và chúng mày mà lão nói đến là vợ con của lão. Thật kì lạ là người đàn bà khổ nạn ấy không kêu một tiếng, không chống trả, không trốn chạy mà "cam chịu đầy nhẫn nhục". Hình ảnh đau lòng đó đã làm cho nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh "kinh ngạc", "đứng há mồm ra mà nhìn" trong mấy phút. Khi Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới thì có một thằng bé con giận dữ "như một viên đạn lao tới đích đã nhắm" lao thẳng vào cái lão đàn ông. Đứa bé với một sức mạnh ghê gớm đã giằng được chiếc thắt lưng, vung chiếc khoá sắt quật vào giữa ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen loần xoăn của lão đàn ông. Giằng không được cái dây thắt lưng da, lão ta dang thẳng cánh cho thằng bé hai tát khiến thằng bé ngã dúi xuống cát. Tiếng gọi: "Phác, con ơi!" của người mẹ tội nghiệp cất lên. Hình ảnh người đàn bà "ôm chầm lấy thằng bé, rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi ôm chầm lấy... Và hình ảnh thằng nhỏ "lặng lẽ đưa ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ" lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt, tất cả đã làm cho nhà nhiếp ảnh Phùng, cho mỗi chúng ta tê tái bàng hoàng. Đứa con đến để cứu mẹ, để chặn bàn tay của con người thú. Phùng "ngơ ngác nhìn" ra bờ phá khi người đàn bà buông đứa con ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông vừa đánh mụ, rồi cả hai cùng đi về thuyền. Bãi cát hoang sơ mà mênh mông, tiếng sóng kêu ồ ồ cất lên. Bức ảnh thế sự ấy diễn ra "như trong truyện cổ quái đản", chiếc thuyền vó đã biến mất, chắc đã làm cho cách nghĩ, tâm nhìn và cảm quan nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng thay đổi? Bức ảnh thế sự trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu kí hoạ, đã được nhà nhiếp ảnh Phùng mục kích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về cái đẹp, nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hóa cuộc đời, bối hồng tô son hiện thực cuộc đời là vô nghĩa khi cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt!

 

 

phân tích chiếc thuyền ngoài xa

phân tích chiếc thuyền ngoài xa

     

Với Phùng có thể coi đây là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: chiếc thuyền nghê thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần trụi, ờ rất gần ngay trước mắt. Qua đó, ta càng thấy rõ chân lí cuộc đời có lúc, có nơi không phải là chân lí nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu qua "Chiếc thuyền ngoài xa" đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với nhà nghệ sĩ chân chính giàu bản lĩnh.

     

Câu chuyện người đàn bà làng chài ở trụ sở tòa án huyện đã lí giải cho Phùng và Đẩu, đã giúp chúng ta hiểu rõ sự thật trần trụi trước mọi bi kịch bạo hành trong gia đình, hiểu sâu hơn tấm lòng và tâm lí của người phụ nữ trong nỗi éo le cuộc đời.

   

 Người đàn bà mặt rỗ lúc đầu chỉ dám ngồi ở góc tường, khi được Đẩu mời, mụ mới "rón rén" đến ngồi vào mép chiếc ghế và cố thu người lại. Khi nghe vị Chánh án nói, mụ ngước lên nhìn rồi lại "cúi mặt xuống". Có lẽ lần đầu đến cơ quan nhà nước, mụ mới sợ như vậy. Mụ chắp tay vái lia lịa Đẩu và xưng là: "Con lạy quý tòa...". Mụ nhấp nhổm xoay mình như bị kiến đốt! Nghe mụ van xin mà xót xa: "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...". Sống với một kẻ vũ phu, "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" thế mà mụ vẫn van xin quý tòa "đừng bắt con bỏ nó". Chánh án Đẩu làm sao hiểu được nỗi éo le đó. Nhà nhiếp ảnh Phùng thì cảm thấy "ngột ngạt quá!".

     

Khi nghe vị chánh án gọi bằng bà, và nói rõ chủ trương của toà án là kêu gọi hoà thuận, chị ta "ngơ ngác" nhìn Đẩu, nhìn Phùng, chị ta thay đổi cách xưng hô, tự xưng là chị, gọi Đẩu và Phùng là chú rất khẩn thiết, rất chân thành.

     

Mụ kể về thời con gái của mình, mụ tâm sự về chuyện lấy chồng của mình: mặt rỗ, xấu gái, không ai lấy, rồi có mang với anh con trai... "lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi". Mụ kể chuyện từ ngày cách mạng về đỡ khổ, chứ trước đây những lần động biển, vợ chồng con cái toàn ăn xương rồng luộc chấm muối suốt hàng tháng trời. Chị ta than thở gia cảnh nghèo, thuyền quá nhỏ... Đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá; đàn ông ở thuyền hoặc uống rượu hoặc đánh vợ, bất kể lúc nào, hễ thấy khổ quá là xách vợ ra đánh. Chị ta cho biết nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông, nhất là những khi biển động sóng gió để chèo chống. "Ông trời sinh ra đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở đất được...". Chị cho biết chồng chị ngày trước cũng trốn đi lính ngụy. Chị cũng có niềm vui là khi vợ chồng con cái "sống hòa thuận vui vẻ", "vui nhất là ngồi nhìn đàn con được ăn no",...

     

Sự nhẫn nhục, đức hi sinh của người đàn bà mặt rỗ thật bao la. Chị ta cam chịu khi bị chồng đánh. Chị ta chỉ xin chồng đừng đánh mình trước mặt đàn con. Chị ta sợ đứa con trai tên là Phác làm điều gì dại dột đối với bố nó nên phải gửi nó lên rừng ở với ông ngoại. Chị ta đã khóc khi nghe Phùng nhắc đến tên thằng Phác. Chỉ qua những lời giãi bày chân thật đó, ta mới có thể hiểu được nỗi khổ, sự cam chịu nhẫn nhục, đức hi sinh thầm lặng, tình thương con mênh mông của người đàn bà làng chài đáng thương; ta mới thấu hiểu được cái căn nguyên sâu xa của tệ nạn bạo lực trong các gia đình nghèo cực. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu, chỉ kí quyết định bắt người đàn bà mặt rỗ bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn chuyện đời một cách thấu suốt, rất nhân tính, rất đời, thì ta sẽ thấy cách nghĩ, cách sống, cách xử sự của người vợ, người mẹ ở trong truyện là không thể khác được.

    

Biết được đáy vực nông, sâu đã là khó. Biết được lòng người xấu, tốt, biết được nỗi lòng, nỗi đời, cảnh ngộ của con người đâu dễ! Qua câu chuyện người đàn bà ở tòa án huyện, ta càng thấy rõ: không thể đơn giản, dễ dãi khi nhìn người, nhìn đời, khi đánh giá hiện tượng trong xã hội, trong cuộc sống. Không thể hấp tấp vội vàng. Nếu thiên kiến, định kiến, duy ý chí là sai, có lòng tốt, ý định tốt chưa đủ mà phải suy xét, cân nhắc vừa có tình vừa có lí, vừa được việc vừa được người.

     

Truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" có nhiều tình huống rất bất ngờ hấp dẫn. Mỗi một tình huống xuất hiện, tính kịch của câu chuyện lại được nâng cao, được khắc sâu. Nhà nhiếp ảnh Phùng lúc đầu phát hiện ra hình ảnh chiếc thuyền chài hiện ra trong sương mù và đã bấm máy "liên thanh" hết một phần tư cuộn phim và ngây ngất trước cái đẹp của ngoại cảnh là một tình huống thơ mộng. Chuyện người đàn ông chân chữ bát dùng dây thắt lưng lính ngụy đánh mụ vợ mặt rỗ và thằng Phác đánh lại bố hắn để bảo vệ người mẹ thương yêu là một tình huống bất ngờ diễn ra trước mắt Phùng làm cho tính bi kịch đầy nước mắt. Chuyện lão thuyền chài lại đánh vợ, đánh bị thương Phùng - kẻ dám đến can ngăn; chuyện chị gái cướp lấy con dao mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ tội nghiệp, đều là tình huống cực kì cay đắng, dữ dội. Câu chuyện của người đàn bà mặt rỗ kể ở cơ quan toà án huyện... là tình huống nói về sự éo le của cuộc đời, về thân phận tủi nhục đắng cay của người đàn bà nghèo, đông con ở làng chài.

     

Qua các tình huống đó, nhà nghệ sĩ Phùng mới thấm thía rằng: nghệ thuật không thể lãng mạn hóa, thi vị hoá cuộc đời khi cuộc đời còn đầy ngang trái. Chánh án Đẩu mới thấu hiểu tòa án không chỉ để thực thi công lí, pháp luật mà con phải soi sáng lòng dân, tình dân. Và mỗi chúng ta mới hiểu: cuộc sống đã và đang diễn ra là vô cùng phức tạp, không thể đơn giản hoặc chỉ nhìn một chiều, một phía, một cạnh.

    

 Tính tình huống đã làm cho truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" vừa chân thực, vừa mang giá trị nhân bản sâu sắc. Phải chăng cuộc đời lam lũ nghèo khổ, nheo nhóc, sự tối tăm ngu dốt... là một trong những nguyên nhân gây ra nạn bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em trong một số gia đình Việt Nam lâu nay? Phải chăng Nguyễn Minh Châu đã kín đáo nói về một căn nguyên đầy nước mắt mà thi hào Nguyễn Du đã viết trong "Văn chiêu hồn" hơn hai thế kỉ trước:

"Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?"

4. Bài phân tích chiếc thuyền ngoài xa đoạn cuối

Bài phân tích chiếc thuyền ngoài xa đoạn cuối

 

Chiếc thuyền ngoài xa là tên một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu viết về đề tài đời sống thường nhật, được sáng tác sau giai đoạn 1975. Thông qua một chuyến đi của một nghệ sĩ nhiếp ảnh để tìm tới những vẻ đẹp chân thực của nghệ thuật, nhà văn đã đề cập đến sợi dây gắn kết của văn học và những hiện thực của cuộc sống. Đặc biệt, đoạn cuối trong tác phẩm để lại trong lòng người đọc những giá trị bài học sâu sắc trong đời thực.

 

Sau khoảnh khắc bắt gặp được hình ảnh chiếc thuyền đang tiến vào bờ, được tôn vinh vẻ đẹp nên nhờ một bầu không gian rộng mở của biển cả và ánh sáng ban mai của nắng mặt trời. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Cảnh sắc huyền ảo, tinh khôi được điểm tô cả những hoạt động, nét sống của con người với “vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum”.

 

Sau khi kết thúc chuyến đi, cùng một câu chuyện đời được kể bởi người đàn bà làng chài, tác giả đã bổ sung vào bộ lịch năm ấy bằng hình ảnh của chiếc thuyền ngoài xa. Tấm ảnh đó được trưởng phòng rất bằng lòng, “được treo nhiều nơi nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Họ ra sức tôn vinh, suýt xoa vẻ đẹp mờ ảo được nhìn thấy trong khung hình mà chẳng hề biết được phía sau nguồn gốc của bức ảnh ấy đã có những điều gì xảy ra ngoài xã hội. Đối với những người yêu nghệ thuật, giống như anh Phùng, họ sống cả đời cũng chỉ để mong muốn khao khát được ngắm nhìn, bắt gặp những khung hình nghệ thuật tuyệt vời như vậy.

 

Thế nhưng, trong bộ ảnh dường như không có gì đáng chê trách, Phùng vẫn có những chút băn khoăn, gợn lòng vì thực tế những gì anh đã chứng kiến trong chuyến đi công tác đã khiến anh có phần hụt hẫng. “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.”

 

Tuy là người chụp nên tấm hình đó, nhưng Phùng vẫn luôn dành biết bao thời gian, tâm tưởng suy nghĩ về người đàn bà hàng chài với “tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm”. Anh luôn tưởng sau khi giành được thống nhất, độc lập đất nước, nhân dân đã có được cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn… thế nhưng ở nơi đây, một cuộc sống kham khổ, lam lũ, bữa đói bữa no cùng những trần đòn roi của người chồng vũ phu vẫn đang tiếp diễn mỗi ngay trên bờ biển.

 

Còn có biết bao nhiêu người phụ nữ khác cũng phải chịu chung số phận như thế. Bên cạnh cuộc đời của người đàn ông kệch cỡm, cùng người đàn bà mệt mỏi ấy, tác giả còn nhìn thấy một vòng đời luẩn quẩn của thằng Phác, con gái của cặp vợ chồng miền biển ấy.

 

Thế nhưng, gạt bỏ lại tất cả nỗi đau khổ, túng nghèo, có những lúc họ vẫn chấp nhận, mỉm cười với hạnh phúc ấy, vì họ tin rằng đó là nơi họ có thể tìm được một chỗ dựa khi mỏi mệt.

 

Cũng thông qua đoạn kết ấy, tác giả còn muốn cởi bỏ một lớp màng hào nhoáng về những sự thật của cuộc sống. Chẳng phải là ánh sương hồng ban mai làm ngây ngất lòng người, mà phía sau đó còn là những mảnh đời “ đen trắng”. Nó không hoàn toàn xám xịt, hay đen tối nhưng vẫn khiến cho người ta ám ảnh, chẳng thể thoát khỏi những băn khoăn, lo nghĩ. Tấm ảnh vẫn nằm đó, ngay ngắn trên vách tường nhưng Phùng vẫn nhìn thấy người đàn bà ấy ra khỏi tấm ảnh với “bước chân chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất, hòa lẫn trong đám đông…”. Dù cuộc sống cá nhân cuộc đời họ như thế nào, thì khi ra ngoài xã hội, người đàn bà ấy vẫn rất vững vàng, tự tin hòa nhập và tiếp tục hành trình cuộc sống của mình. Một cuộc đời thầm lặng, vô danh của người đàn bà hàng chài đã vô tình giúp cho tác giả cùng những đọc phải suy ngẫm, soi xét lại bản thân những tính cách và phẩm chất cần có của con người.

 

Một vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên cũng không thể nào sánh được vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ ấy. Một người phụ nữ luôn nhẫn nhịn, biết hi sinh cho bản thân, gia đình, con cái. Dù đau đớn họ cũng không than phiền, chống trả mà vẫn tiếp tục chịu đựng.

 

Những đức tính ấy đã được tôi luyện, rèn giũa từ cuộc sống của người lao động vất vả, đắng cay.

 

Kết thúc câu chuyện, Nguyễn Minh Châu đã như đóng một dấu ấn vào trong lòng người đọc bằng những hình ảnh thật đẹp và những triết lý của cuộc sống. Cuộc sống không chỉ toàn là một màu hồng, sống trong đời cần phải biết mở rộng tầm mắt ra muôn nơi, ngừng than phiền về cuộc sống và phải biết cố gắng, phấn đấu và trở thành những con người tốt đẹp hơn.

 

Bài phân tích đoạn cuối bài Chiếc thuyền ngoài xa 

 

Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn này được trích trong tuyển tập truyện “Bến quê” (1985). Truyện ngắn đã thể hiện tài năng và bản lĩnh nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong việc khắc họa rõ nét đời sống và thân phận con người trong cuộc sống đời thường. Bài viết dưới đây sẽ phân tích đoạn cuối tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa cho các bạn cùng biết nhé!

 

Điểm nhấn của đoạn kết chính là tấm ảnh mà Phùng đã chụp được, đó là cảnh chiếc thuyền lưới vó đang tiến vào bờ. Dưới con mắt của người đọc thì khung cảnh ấy hiện lên thật đẹp và mĩ mãn. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ, loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Một khung cảnh như vậy khiến cho bất cứ ai nhìn thấy cũng phải thốt lên rằng cảnh này thực sự quá đẹp.

 

Tấm ảnh này đã được bổ sung vào bộ lịch năm ấy. Tấm ảnh đó rất được trưởng phòng hài lòng, “được treo nhiều nơi nhất trong các gia đình sành nghệ thuật”. Tuy nhiên phía sau nguồn gốc bức ảnh đó chẳng ai biết và cũng chẳng ai muốn quan tâm, chỉ có Phùng biết mà thôi. Nhưng đối với những người đam mê nghệ thuật thì họ chỉ cần như thế là đủ, họ chỉ muốn được ngắm nhìn khung cảnh tuyệt vời như vậy ít nhất một lần trong đời.

 

Dù là người chụp đấy nhưng Phùng vẫn băn khoăn, trăn trở về người đàn bà hàng chài. Phân tích đoạn cuối của tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa không chỉ đơn thuần là phân tích tấm hình chụp mà còn là tâm trạng của anh phóng viên của tạp chí năm nào. Phùng vẫn dành rất nhiều thời gian, tâm tưởng để suy nghĩ về người đàn bà ấy “tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”.

 

Tuy nhiên người đàn bà đó vẫn có vẻ kiên cường mà anh không thể nào lí giải được. Anh vẫn luôn tưởng rằng khi đất nước độc lập, thống nhất thì cuộc sống của người dân sẽ ấm no, hạnh phúc hơn. Thế nhưng ở đây, một cuộc sống kham khổ, lam lũ, bữa đói bữa no cùng với người chồng vũ phu vẫn đang tiếp diễn mỗi ngày.

 

Liệu rằng còn có biết bao nhiêu người phụ nữ phải chịu chung số phận với người đàn bà hàng chài ấy? Một người đàn bà kham khổ, chịu khó nhưng vẫn phải chấp nhận những trận đòn roi qua ngày của chồng có đáng hay không. Nhưng suy cho cùng họ vẫn chấp nhận tất cả, vẫn nở nụ cười rạng rỡ với điều ấy, vì họ tin rằng đây là nơi mà họ có thể tìm về mỗi khi mệt mỏi.

 

Qua đó, tác giả cũng muốn gửi gắm một thông điệp về cuộc sống sẽ không chỉ có màu hồng hào nhoáng như ánh sương mai. Mà phía sau nó còn có những mảnh đời đen trắng. Nó không hoàn toàn xám xịt hay đen tối nhưng khiến cho người ta không khỏi cảm thấy băn khoăn, lạnh lòng khi nghĩ về những mảnh đời như vậy. Một người phụ nữ luôn nhẫn nhịn, chịu đựng, hy sinh vì gia đình, con cái. Một người phụ nữ có thể chống trả nhưng vẫn tiếp tục chịu đựng. Tất cả những đức tính đấy đều được tôi luyện từ cuộc sống của người lao động vất vả, khó khăn.

 

Khép lại câu chuyện chính là hình thiên nhiên tươi đẹp, đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong lòng đọc giả. Sự tuyệt vời của thiên cùng với vẻ đẹp truyền thống của người đàn bà hàng chài đã khiến cho mọi người không khỏi ngưỡng mộ.

 

Như vậy, chúng ta đã phân tích đoạn cuối tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa và thấy được vẻ được của người đàn bà hàng chài chịu thương, chịu khó. Đó chính là vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ trong mọi thời đại.

 

Bài phân tích bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa ở cuối tác phẩm

 

Nguyễn Minh Châu không chỉ được xem là một nhà văn tài năng, mà còn là một nhà văn mang được nhiều suy ngẫm triết lí đến cho bạn đọc. Đọc chiếc thuyền ngoài xa của ông ta không chỉ thấy một câu truyện giàu ý nghĩa mà còn ấn tượng với ý nghĩa kết truyện trong tác phẩm.

 

Tấm ảnh chiếc thuyền ngoài xa, trong mắt Phùng, lúc đầu đó là cả một kiệt tác nghệ thuật, mà anh đã phải lặn lội từ xa tới chiến trường cũ này, mấy ngày nay mới chụp được một kiểu ảnh vô cùng hoàn mĩ. Đó là vẻ đẹp mà được xem như cả đời có khi chỉ có một lần này Phùng mới nắm bắt được cơ hội. Trên bình diện nghệ thuật, có lẽ nó sẽ được chấm điểm 10/10 vì chất lượng, cảm nhận được cái đẹp trên bình diện của một tấm ảnh toàn bích, đáng thưởng thức, đáng được treo trong những phòng khách quan trọng và cao cấp. Và ai đã thưởng thức được nó, chắc hẳn sẽ đáng tự hào và được xem như một món quà nghệ thuật vô giá!

 

Tuy nhiên, đối với Phùng nó lại là một thứ gì đó khác hẳn. nó chưa hẳn là vậy. Vì với Phùng, tuy chụp được một tấm ảnh hoàn hảo nhưng tâm trạng anh vẫn còn nhiều băn khoăn, day dứt, bởi khi Phùng nhìn tấm ảnh, anh không chỉ thấy hình ảnh của một bức tranh đầy nghệ thuật. Mà còn hiện ra từ đằng sau nó là những hình ảnh khác. Đó là hình ảnh Phùng không nhìn lướt, hời hợt như cách những người khác thưởng thức. Phùng vẫn còn nhìn kĩ hơn, nhìn lâu hơn.. điều đó đã chứng tỏ đằng sau bức ảnh vẫn còn mang nhiều điều gì đó khiến người nghệ sĩ này phải trăn trở?

 

Hóa ra, Phùng nhìn thấy hình ảnh người đàn bà bước ra từ tấm ảnh. Người phụ nữ hàng chài nghèo nàn, và lam lũ. Có cuộc sống cơ cực khốn cùng trên chiếc thuyền chài mà gia đình lại đông con nên số phận càng chật hẹp, cuộc đời càng mỗi lúc thêm long đong lận đận trên cái thuyền chài lưới bé nhỏ và chật hẹp, cũng như cuộc đời của bà lúc nào cũng chật hẹp, tăm tối như vậy…

 

Hình ảnh cam chịu, nhẫn nhục của chị khi bị chồng đánh, không hề kêu lên một tiếng. không chống trả, cũng không chạy trốn. Bà đã kể cho chúng ta nghe về một số phận đáng thương nhưng cũng đáng quý. Không có cái cuộc sống nghèo khổ ấy, ta không thể thấu hết được một tấm lòng hi sinh vì hạnh phúc của con cái nhường nào.

 

Cuộc đời vô thường, bình lặng vô danh không ai biết đến, nhưng người đàn bà hàng chài, người đàn ông, thằng con Phác… tất cả họ đều là đại diện của lớp nhân dân bước ra từ những đói khổ và còn những tệ nạn trong cuộc sống, cái tăm tối mà sau chiến tranh ta cần phải đối mặt “bàn chân chị dẫm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông” Tấm ảnh nghệ thuật đẹp đẽ và lung linh chỉ là cái vỏ bề ngoài mà thôi. Đằng sau nó còn những cuộc sống rách rưới đói nghèo. Tấm ảnh ấy được treo nằm bất động ở đấy ở một nơi sang trọng trong những gia đình am hiểu nghệ thuật. Nhưng phía sau nó lại là cả một ý nghĩa vô cùng quý giá.

 

Tóm lại, đoạn kết của Nguyễn Minh Châu đã muốn nói đến chiếc thuyền ngoài xa, vẻ đẹp ước mơ lí tưởng của người nghệ sĩ luôn khát khao vươn tới. Nghệ sĩ không những chỉ nhìn bề nổi mà còn phải hiểu sâu sắc cuộc sống phía sau của con người và cuộc sống xung quanh.

 

5. Bài phân tích chiếc thuyền ngoài xa phát hiện 1,2

Bài văn phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng

 

Người nghệ sĩ là người luôn kiếm tìm cái đẹp, trân trọng và giữ gìn chúng. Thế nhưng, không phải cái đẹp nào cũng “đơn giản và toàn bích” mà đôi khi chứa đựng sau vẻ đẹp “toàn bích” ấy là cả một sự thật đau đớn đến ngỡ ngàng. Và câu chuyện của nhiếp ảnh gia Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu là một câu chuyện như thế. Khi mà người nghệ sĩ Phùng tưởng chừng như đã tìm ra được vẻ đẹp chân lý của cuộc đời mình thì một sự thật không ngờ về cuộc đời và số phận những người lao động nghèo ở làng chài đã khiến anh phải suy nghĩ lại. Đó có lẽ là hai phát hiện lớn nhất của cuộc đời anh.

 

Câu chuyện bắt đầu khi Phùng được trưởng phòng yêu cầu chụp một bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển cho bộ lịch mới. Vậy là anh được đề nghị đi thực tế để bổ sung và anh đã chọn nơi chiến trường xưa mình đã từng chiến đấu để vừa lấy tư liệu vừa thăm người bạn thân tên Đẩu đang làm chánh án tòa án huyện ở đây.

 

Sau bao ngày “phục kích” trên bãi biển thế nhưng Phùng chưa có bức ảnh nào làm anh ưng ý. Cho đến một hôm khi trời còn mù sương và lác đác mưa, Phùng đã phát hiện ra một con thuyền tuyệt đẹp ở ngoài xa đang dần tiến vào bờ. Đó là phát hiện đầu tiên của Phùng ở chuyến đi này, một phát hiện đã khiến anh “ngẩn” người bởi vẻ đẹp của nó.

 

Khung cảnh biển rộng lớn, bao trùm bởi ánh ban mai, một chiếc thuyền với những đường nét mờ ảo dần tiến lại. Vẻ đẹp ấy tuyệt mỹ đến nỗi mà Phùng phải thốt lên “có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy”. Con thuyền chầm chậm tiến vào “mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum hướng mặt vào bờ...”.Bức ảnh tuyệt đẹp đến nỗi Phùng đã so sánh nó “như một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” với một sự trân trọng đầy quý giá.

 

Cái đẹp của bức tranh ấy được nhìn qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ lại càng đẹp đẽ, lộng lẫy hơn bội phần. Và chính Phùng đã phải xúc động trước vẻ đẹp đó. Anh cảm thấy “bối rối”, cảm thấy như “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Bởi lẽ anh cho rằng, giây phút anh chứng kiến cái đẹp kia chính là giây phút anh tìm được “cái chân lý của sự toàn thiện”, “cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đúng, đó là bởi vì người nghệ sĩ cả đời chuyên tâm kiếm tìm cái đẹp, cái đẹp khiến tâm hồn họ rung động, khiến họ “bối rối” và bức tranh kia lại “đơn giản và toán bích” quá đỗi, khiến Phùng không thể cưỡng lại được. Anh cảm tưởng như tâm hồn mình đã được cái đẹp đó “thanh lọc”, trở nên trong ngân hơn bao giờ hết.

 

Ít có người nghệ sĩ nào lại có được những phút giây thăng hoa như thế trong cuộc đời của mình. Và Phùng là số ít người bắt gặp được cái đẹp mà đôi khi cả đời người cũng không thể tìm thấy. Anh đã thực sự hạnh phúc khi bắt gặp được cái đẹp tuyệt mỹ kia, một phần bởi sự may mắn, nhưng cũng là bởi sự tinh tế, nhạy bén của tâm hồn nghệ sĩ trong anh. Phát hiện đó có thể được coi là một quan niệm về cái đẹp trong vũ trụ của Nguyễn Minh Châu, ông cho rằng cái đẹp đều xuất phát từ những sự vật, sự việc bình thường trong đời sống. Ý nghĩa thứ hai của vẻ đẹp ấy đó là thứ con người ta đạt được qua quá trình lao động với lòng kiên nhẫn kiên trì mới có được thành quả nhường ấy!

 

Thông qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn thể hiện một tấm lòng yêu nghệ thuật, say mê cái đẹp, không chấp nhận thứ nghệ thuật sơ sài, đồng thời ông cũng khẳng định “cái đẹp chính là đạo đức”. Và người nghệ sĩ chân chính, với lòng say mê của mình sẽ có được kết quả như mong muốn.

 

Cái đẹp không kéo dài, vậy nên Phùng đã “gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc pra-ti-ca cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại”. Thế nhưng, anh lại không biết rằng, sau vẻ đẹp đó lại không “đơn giản”. Vẻ đẹp đó chứa đựng một sự thật đau đớn về số phận của những con người lao động nghèo nơi làng chài này. Và đó chính là phát hiện thứ hai của anh trong chuyến đi này, mang lại cho anh một cái nhìn mới về cuộc đời, bài học về trách nhiệm của người nghệ sĩ.

 

Thời gian xoay vần, bức tranh không còn sự tĩnh lặng nữa, thay vào đó là sự chuyển động. Và cái đẹp mà Phùng vừa tưởng là “đạo đức” kia chợt bị câu quát “Cứ ngồi im đấy. Động đậy tao giết cả mày giờ” phá tan nát. Bức tranh “toàn bích” kia lại bị xé toang bởi hình ảnh của hai con người bước ra từ chiếc thuyền trong mơ ấy. Hai con người mang đầy dáng vẻ “thô kệch, xấu xỉ”, điển hình của những con người vùng biển bước đi chậm rãi tiến vào bờ. Người đàn bà “cao lớn, với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt”, khuôn mặt xám xịt “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt”,còn người đàn ông với “tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát” và “đôi mắt đầy vẻ độc dữ” dường như muốn đâm thủng tấm lưng của người đàn bà đi trước. So với vẻ đẹp của con thuyền thì cảnh tượng ấy thật “thảm hại” làm sao!

 

Thế nhưng, đó chẳng phải là điều khủng khiếp nhất mà Phùng thấy sau vẻ đẹp như mơ kia, điều khủng khiếp nhất là khi Phùng phải chứng kiến một cảnh bạo lực tưởng chừng như thời trung cổ. Người đàn ông “rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa” rồi thẳng tay “quật tới tấp vào lưng người đàn bà” và rít lên những tiếng oán hận “mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Một cảnh tượng khủng khiếp cứ thế diễn ra trước mắt người nghệ sĩ, ngay sau bức tranh đẹp tuyệt vời mà anh vừa định nghĩa bằng “đạo đức”. Thế nhưng, mặc người đàn ông đánh đập, gào thét trong oán hận, người đàn bà vẫn cam chịu đến nhẫn nhục “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”.

 

Lúc đó, Phùng đã kinh ngạc tới mức “đứng há mồm ra nhìn” bởi lẽ khung cảnh tĩnh lặng trên con thuyền của buổi bình minh vẫn còn khiến anh ngây ngất. Và có lẽ, khi chứng kiến cảnh tượng đó, Phùng đã ngỡ ngàng đến mức không kịp trở tay như thế. Và càng ngạc nhiên tột độ hơn, khi cái bóng của thằng bé Phác – con của vợ chồng người đàn bà hàng chài chạy đến bên mẹ “như một viên đạn trên đường lao tới đích nhắm”. Nó đã dùng hết sức lực của mình “giành lấy chiếc thắt lưng, (…) vung chiếc khoá sắt quật vào khuôn ngực trần” của cha nó.

 

Chỉ vừa mới choáng ngợp trước cảnh đẹp của thiên nhiên, thì giờ đây là cảm giác không thể tin nổi khi phải chứng kiến một cảnh tượng khủng khiếp nhất trong đời sống. Một người lính như Phùng có gì chưa từng chứng kiến, kể cả cái chết, nhưng những cảnh tượng đau lòng chồng đánh vợ, con đánh cha diễn ra trước mắt khiến anh không thể tin được lại vẫn còn ngay cả khi đất nước đã hoà bình.

 

Thế nhưng, hiện thực vẫn là hiện thực, chiến tranh đã qua đi, ác liệt đã qua đi nhưng cái đói, cái nghèo thì vẫn còn. Hai vợ chồng người đàn bà hàng chài ấy đã bị cuộc sống mưu sinh bức ép mà dẫn tới cảnh tượng bạo lực khủng khiếp như Phùng đã chứng kiến. Thêm vào đó, việc sinh đẻ nhiều làm cho cái vòng đói nghèo mãi luẩn quẩn, không có lối thoát.

 

Phát hiện thứ hai của Phùng là cảnh tượng bạo lực gia đình, một cảnh tượng mà những tưởng đã dần dần chấm dứt sau chiến tranh. Từ đó, Nguyễn Minh Châu muốn chỉ ra rằng đằng sau vẻ đẹp tuyệt bích, đôi khi lại là những cảnh tượng đau lòng vô cùng. Người nghệ sĩ phải là người đi sâu, tìm tòi được cái góc khuất phía sau vẻ đẹp đó, chứ không phải hời hợt, nông cạn trong cái đẹp bề ngoài. Cái đẹp và cái xấu xa đôi khi chỉ cách nhau một tấm màng mỏng và người làm nghệ thuật phải biết khai thác cả những vấn đề xấu xa để đi sâu tìm hiểu con người, số phận và tâm hồn của họ.

 

Hai phát hiện của nhân vật Phùng là hai phát hiện mang tính trái ngược. Thế nhưng chính điều đó lại làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm cũng như dụng ý mà tác giả muốn gửi gắm. Cuộc sống là một bài học mà chúng ta phải lật giở từng trang, hiểu sâu về nó, chứ không phải chỉ ngắm nhìn qua cái vẻ ngoài đẹp tuyệt mỹ. Và người nghệ sĩ là người có trách nhiệm khám phá mọi góc cạnh của cuộc đời, của con người để hiểu thấu họ.

 

Bài văn phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng 

 

Nói về Nguyễn Minh Châu và những sáng tác của ông Tô Hoài đã có những lời thật đúng đắn rằng “Đọc Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên trang giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý”. Quả thực đúng vậy, đọc nhiều những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là các tác phẩm thời kỳ hậu chiến, từ những năm 80 trở đi, khi nhà văn từ giã đề tài chiến tranh để đi sâu vào vấn đề đạo đức thế sự, và số phận con người trong xã hội thời kỳ đổi mới, ta thấy trong những câu chuyện bình thường, luôn ẩn hiện nhiều tầng triết lý. Đặc biệt là lối kể, lối viết đi sâu vào nội tâm, cũng như những câu chuyện riêng của từng nhân vật, đã mang đến cho người đọc nhiều trải nghiệm ấn tượng. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất trong đời sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Thông qua bước chân và hai phát hiện đặc sắc của nhiếp ảnh gia Phùng, tác giả đã mang đến cho người đọc những triết lý nhân sinh sâu sắc về cách nhìn nhận vấn đề trong cuộc sống, mối tương quan giữa cuộc đời và nghệ thuật, đồng thời cũng bộc lộ nhưng niềm trăn trở của ông về số phận của con người trong xã hội những năm tháng sau chiến tranh.

 

Nhân vật Phùng trong câu chuyện của Nguyễn Minh Châu vốn từng là một người lính tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, sau khi hòa bình lập lại Phùng đảm nhận vị trí một nhiếp ảnh trong một tòa soạn báo. Để có được một bức ảnh về miền biển in trong cuốn lịch cuối năm mà trưởng phòng giao phó, Phùng đã tìm về một vùng biển miền Trung, nơi đã từng là chiến trường cũ, đồng thời cũng là dịp để anh ghé thăm Đẩu- người đồng đội cũ của mình. Sau suốt nhiều ngày chờ đợi, săn tìm, nhưng Phùng vẫn chưa có cho mình một bức ảnh thật ưng ý, bởi lẽ anh là một người yêu nghệ thuật và luôn có những yêu cầu rất cao về thẩm mỹ, chính vì vậy Phùng không cho phép mình sơ sài, hời hợt. Phùng phải chờ đợi suốt hơn tuần liền mà cuộn phim trong máy vẫn chẳng xê dịch mấy. Nhưng may mắn thay, dường như ông thời biết được tấm lòng của người nghệ sĩ nên đã để anh chứng kiến được một khung cảnh hoàn mỹ, cái mà Phùng ví như cảnh “đắt” trời cho, cả đời người nghệ sĩ khéo cũng chưa thấy được một lần. Đây cũng chính là phát hiện đầu tiên của Phùng trong chuyến đi công tác.

 

Buổi sớm định mệnh hôm ấy, khi Phùng đang loay hoay núp sau chiếc xe tăng cũ để trú cơn mưa phùn lất phất, thì từ đằng xa bỗng có một con thuyền lưới cá dần dần cập bến trong ánh sương lẫn ban mai mờ mờ tựa như một “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Vẻ đẹp ấy được Nguyễn Minh Châu phác lại bằng những nét vẽ thật giản đơn và cổ điển “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ…”. Người nghệ sĩ với tấm lòng tôn thờ sự hoàn mỹ trong nghệ thuật đã không thể kiềm lòng mà nhận định rằng khung cảnh trước mắt anh quả thực là một vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”. Phùng đứng trước phát hiện bất ngờ này hoàn toàn trở nên bối rối, tựa như một chàng trai khi đối diện với tình đầu, “trái tim như có gì đó bóp thắt vào”, một cảm giác mà trước đây Phùng chưa thấy bao giờ. Tất cả đều bộc lộ niềm sung sướng, hạnh phúc đến tột cùng của người nghệ sĩ khi may mắn bắt gặp được cảnh tượng quý giá nhất trong đời cầm máy.

 

Ngay trước phát hiện tuyệt vời về cảnh “đắt” trời cho lúc buổi sương sớm, Phùng đã tưởng như mình vừa khám phá được một định nghĩa mới của cái đẹp rằng “bản thân cái đẹp là đạo đức”, thậm chí đầu óc Phùng lúc này chỉ toàn những xúc cảm tuyệt vời khi tưởng như mình vừa phát hiện ra chân lý của sự toàn thiện, tuyệt mỹ, khám phá ra cái “khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Phải nói rằng trước cảnh đẹp trời ban, trái tim Phùng dường như vừa được khai mở và có một vầng sáng vĩ đại soi chiếu, khiến tâm hồn của người nghệ sĩ trở nên rộng mở và thăng hoa đến tột cùng của xúc cảm. Không chần chừ lâu, Phùng lập tức đưa máy lên bấm “liên thanh” hết ba phần tư cuốn phim mà chẳng cần “xê dịch” gì nữa, dường như anh đã thu vào chiếc máy ảnh của mình tất cả cái “khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn mình, do cái đẹp ngoại cảnh mang lại”.

 

Có thể nói rằng đối với nghệ sĩ Phùng, cũng như đối với tất cả những người yêu nghệ thuật, hết lòng vì cái đẹp, thì việc bắt được một cảnh “đắt” trời cho như vậy là niềm hạnh phúc không gì có thể sánh bằng. Cảnh một chiếc thuyền lưới cá, cũ, nhỏ và đơn sơ, cùng với những ngư dân từ từ cập bến có thể nói là một cảnh tượng khá quen thuộc và bình thường ở miền biển. Tuy nhiên chính những thứ tưởng chừng nhỏ nhặt, giản đơn ấy, khi kết hợp với nhau, lại trở thành bức tranh mỹ cảnh hiếm có trong đôi mắt đa cảm của người nghệ sĩ. Phát hiện đầu tiên của Phùng trong chuyến công tác dài ngày có nhiều ẩn ý, đầu tiên là quan niệm về cái đẹp trong vũ trụ của Nguyễn Minh Châu hầu như đều xuất phát từ những sự vật, sự việc thực bình thường, mà người nghệ sĩ chân chính phải dùng tấm lòng chân thành, tinh tế và nhạy cảm để phát hiện và ghi nhận.

 

Thứ hai nữa, phát hiện của Phùng còn là tượng trưng cho những vẻ đẹp duy mỹ, không tỳ vết, là những thứ mà con người hằng theo đuổi ao ước đạt được, tuy nhiên để đạt được nó con người ta đều phải trải qua quá trình lao động miệt mài, lòng kiên nhẫn thì mới nhận được quả ngọt. Không chỉ vậy, bằng ngòi bút tinh anh Nguyễn Minh Châu còn thông qua nhân vật Phùng để thể hiện tấm lòng yêu nghệ thuật sâu sắc của một người nghệ sĩ chân chính, nhất quyết không chịu chấp nhận những thứ nghệ thuật sơ sài, gượng ép, đồng thời cũng bộc lộ quan điểm “bản chất của cái đẹp là đạo đức”, dù rằng trong phát hiện đầu tiên, triết lý này vẫn chưa được khai mở rõ ràng, mà chỉ được nêu ra thông qua nhân vật Phùng, trong lúc anh mải mê bối rối, say mê với cảnh đẹp tuyệt đỉnh trước mắt. Cuối cùng tổng kết lại sau tất cả những ẩn ý về phát hiện đầu tiên của Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn chỉ ra rằng đằng sau những cái đẹp vốn có của tự nhiên đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của con người. Bởi lẽ nếu không có một tâm hồn nhạy cảm trước cái đẹp, lòng kiên nhẫn, say mê với công việc, bất chấp thời gian, thời tiết có lẽ Phùng đã chẳng thể bắt lấy cái cảnh toàn bích như một bức tranh của danh họa thời cổ, để rồi phải ngây người vì quá đỗi sung sướng trước thành quả mà mình đạt được.

 

Tuy nhiên tình huống truyện trở nên đặc sắc hơn khi Phùng tiếp tục có phát hiện thứ hai, một phát hiện dường như đã đánh vỡ nát cái mộng tưởng, cũng như niềm sung sướng tự hào khi bản thân phát hiện ra cái đẹp toàn bích và chân lý của cuộc đời người nghệ sĩ. Ngay lúc Phùng thu máy, chuẩn bị đi về để hoàn thành báo cáo, thì chiếc thuyền cũng cập bến, bức tranh dần tan đi cái vẻ tĩnh lặng, yên bình, thay vào đó là sự vận động đến từ những con người trên chiếc thuyền. Cái “đạo đức” mà Phùng hằng tâm niệm bỗng chốc bị câu nói “Cứ ngồi im đấy. Động đậy tao giết cả mày bây giờ” phá nát, một câu hăm dọa ghê gớm, đã xé toang bức tranh hiền hòa người nghệ sĩ vừa kịp thu vào trong máy, trước sự ngỡ ngàng của anh.

 

Ngay sau đó, Phùng thấy bước xuống từ chiếc thuyền đó một người đàn bà cao lớn, đường nét thô kệch xấu xí, khuôn mặt rỗ và xám xịt vì thức đêm, người đàn ông đi sau, lưng còng, tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, khuôn mặt dữ tợn nhìn chòng chọc như muốn đâm thủng tấm lưng rách rưới của người đàn bà. Tất cả cảnh tượng ấy, đều chỉ có thể tóm gọn lại bằng hai chữ “thảm hại”, và chắc chắn khác xa so với những gì Phùng tưởng tượng về hình tượng người dân chài kéo lưới, nhưng thực tế thì luôn sẵn sàng tát vào mặt kẻ mộng mơ là thế. Tuy nhiên điều khủng khiếp hơn còn ở phía sau, khi Phùng tận mắt chứng kiến một cuộc ẩu đả đơn phương, một cuộc bạo lực gia đình ghê gớm, khi gã đàn ông rút chiếc thắt lưng liên tiếp quất vào người đàn bà, vừa đánh vừa rít lên những tiếng oán hận, mà có lẽ chỉ có kẻ thù mới dành cho nhau “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ. Còn người đàn bà lại cam chịu, không chống trả, cứ mặc cho người đàn ông chửi rủa đánh đập.

 

Phùng khi chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng ấy đã không thể tin vào mắt mình, bởi lẽ trước đó cái cảnh gia đình yên ấm, sum họp trên chiếc thuyền nhỏ vào buổi bình minh còn khiến anh ngây ngất, say mê chưa dứt, thì những gì diễn ra dường như khiến anh không kịp trở tay. Phùng kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu chỉ biết đứng há hốc mồm ra nhìn, điều đó khiến ta liên tưởng đến cảm giác của Phùng trong phát hiện đầu tiên, Phùng cũng ngỡ ngàng như thế. Có thể nói rằng trong một buổi sáng Phùng đã hai lần gây ra, não bộ không kịp tiếp thu những gì mà anh nhìn thấy, một lần là vì choáng ngợp trước vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hóa, còn một lần khác là cảm giác không thể tin nổi trước khi buộc phải chứng kiến những cảnh tượng xấu xí nhất của cuộc sống. Gia đình vốn là hạt giống là điển hình của một xã hội, nó có tốt đẹp thì đất nước mới có thể đi lên. Một con người có nhiều năm tháng buôn ba trên khắp các chiến trường, chiến đấu vì lý tưởng giải phóng đất nước và con người, thâm tâm Phùng những tưởng sau chiến tranh đất nước yên bình, sẽ chẳng còn những cảnh tượng khủng khiếp và đau lòng, mà chỉ còn những cảnh đẹp của thế gian. Thế nhưng hiện thực đã chứng minh rằng, suy nghĩ của Phùng thực còn quá nông cạn, cuộc sống và số phận của nhiều con người vẫn còn đang chìm trong đau thương, trước đây họ đau khổ vì chia ly vì chiến tranh, mất mát, thì đến hôm nay dù hòa bình đã lập lại nhưng gánh nặng của họ lại là đói nghèo, sự khuyết thiếu văn hóa. Hai vợ chồng người đàn bà làng chài là những điển hình rõ rệt nhất, đói nghèo bức ép khiến họ phải vật lộn mưu sinh, trình độ thấp dẫn tới cảnh tượng bạo lực gia đình và phải đối mặt với sự vỡ kế hoạch, làm gánh nặng trên đôi vai hai vợ chồng càng tăng thêm, điều đó đã trở thành một vòng luẩn quẩn không lối thoát.

 

Như vậy trong phát hiện thứ hai của nhân vật Phùng, thông qua cảnh tượng khủng khiếp ấy, Nguyễn Minh Châu đã vén ra bức màn đang che mắt những con người làm nghệ thuật, ông chỉ ra rằng đằng sau những vẻ đẹp tuyệt mỹ, toàn bích nhiều khi lại chính là những cảnh tượng đau thương nhất. Người nông cạn chỉ nhìn thấy cái đẹp, cái hoàn hảo như lòng mình mong ước, nhưng người nghệ sĩ thực sự lại phải là người đào sâu tìm kỹ, phát hiện được cả những góc khuất và đặc biệt là có tấm lòng nhân hậu, quan tâm đến số phận những con người tội nghiệp đang bị che lấp bởi vỏ bọc đẹp đẽ. Nghệ thuật không chỉ là nghệ thuật mà nó còn phải gắn liền với cuộc đời, vẫn biết rằng cái đẹp đều xuất phát từ cuộc đời, nhưng chẳng phải cuộc đời nào cũng đẹp và hoàn toàn đẹp, người ta vẫn nhìn thấy đâu đó những sự sứt sẹo, những cái xấu xa đang hiện diện đầy rẫy và đôi khi chỉ cách cái đẹp toàn mỹ một bức màn thật mỏng, và sẵn sàng đánh vỡ những cái đẹp tưởng như trong ngần, tuyệt diệu nhất. Điều đó chỉ ra một con đường mới cho những người làm nghệ thuật, có lẽ rằng họ phải thay đổi cách nhìn nhận về cái đẹp, thay vì đi mãi một lối mòn săn tìm cái đẹp của tạo hóa, của trời ban, phải chăng họ còn nên nhìn vào cuộc đời, vào thực tế để khai thác những hạt ngọc quý trong tâm hồn con người, như cái cách mà Nguyễn Minh Châu đã khai thác vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà làng chài. Nếu ví cái đẹp như lớp màng mỏng che lấp cái xấu, thì ngược lại cái xấu xí lại như lớp vỏ xù xì, thô ráp bao bọc lấy cái đẹp, mà không phải người nghệ sĩ nào cũng đủ sự tinh tế, nhạy cảm và lòng yêu thương để khai thác và cảm nhận được nó.

 

Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm đặc sắc với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, lồng ghép nhiều triết lý nhân sinh và quan niệm làm nghệ thuật. Đặc biệt trong tình huống truyện trên bãi biển, hai phát hiện của Phùng với sự đối lập nhau rõ nét đã làm nổi bật chủ đề câu chuyện cũng như dụng ý mà tác giả muốn hướng tới – việc tìm kiếm cái đẹp trong tâm hồn con người, cũng như đi tìm câu hỏi cho mối liên quan giữa nghệ thuật và cuộc sống.

 

Bài văn phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng 

 

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, tác giả Nguyễn Minh Châu là một trong những “nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất” (Nguyên Ngọc). Trong những sáng tác của mình, Nguyễn Minh Châu luôn cảm nhận đời sống con người cả ở những sự kiện bề nổi lẫn những khuất lấp trong chiều sâu. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, đặc biệt là qua hai phát hiện tưởng chừng như mâu thuẫn, nghịch lí của người nghệ sĩ Phùng. Đó là phát hiện “một cảnh đắt trời cho” đầy thơ mộng của người nghệ sĩ và phát hiện về cảnh bạo lực gia đình mang tính hiện thực về cuộc đời của một con người giàu yêu thương và luôn trăn trở về cuộc đời và con người.

 

Trước hết, phát hiện thứ nhất về khung cảnh thiên nhiên thơ mộng đã được khắc họa đầy sinh động dưới đôi mắt tài hoa của người nghệ sĩ say mê cái đẹp. Sau những ngày phục kích, Phùng đã bắt gặp “một cảnh đắt trời cho”. Đó là bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ với cảnh chiếc thuyền ngoài xa thấp thoáng, ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Đôi mắt tinh tường của người nghệ sĩ đã phát hiện một cảnh đẹp trời cho - vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chưa từng bắt gặp. Dường như tác giả đã vận dụng tối đa mọi giác quan cùng phác họa những nét vẽ đậm chất hội họa: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Bức tranh có sự xuất hiện của thiên nhiên: “bầu trời mờ sương trắng”, “ánh mặt trời”, vừa có hình ảnh của con người: “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng…”. Trong khung cảnh có sự hài hòa về thiên nhiên và con người đó, người nghệ sĩ đã cảm nhận được vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh”. Tất cả cảnh sắc trời ban đó hiện lên trước mắt anh giống như “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, tạo nên “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Khoảnh khắc nắm bắt được vẻ đẹp đó, người nghệ sĩ trở nên “bối rối” và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Phùng đã có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại”. Người nghệ sĩ dường như đã tìm thấy cái chân - thiện - mĩ của cuộc đời, cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, gột rửa trở nên thật trong trẻo, tinh khôi. Qua đó, chúng ta có thể thấy được cảm hứng triết lí về nghệ thuật: Vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh” chính là sự giản dị, tự nhiên, đồng thời, “cái đẹp là đạo đức”, có tác dụng “thanh lọc”, khiến con người trở nên cao khiết, thánh thiện, không gợn đục.

 

Tuy nhiên, đằng sau phát hiện về bức tranh tuyệt bích đó là một cảnh tượng đầy nghịch lí. Đó chính là phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ về cảnh bạo hành diễn ra trong chiếc thuyền bước ra trong làn sương sớm. Từ điểm nhìn trực diện, rõ nét: “chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ trước tôi đứng”, tác giả đã tái hiện những hình ảnh chân thực về con người. Từ chiếc thuyền bước ra một người đàn bà cao lớn, với những đường nét thô kệch, vẻ mặt mệt mỏi, tái nhợt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới cùng người đàn ông với tấm lưng rộng và cong, mái tóc tổ quạ, đi chân chữ bát, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt đầy vẻ độc dữ. Nhưng những gì diễn ra sau đó mới thực sự khiến Phùng bàng hoàng: người chồng hùng hổ rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng” quất tới tấp vào lưng người đàn bà” với những hành động hung bạo, dã man như một con thú. Tuy nhiên, điều làm Phùng kinh ngạc là sự cam chịu của người vợ, “không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”. Cảnh bạo hành chỉ kết thúc khi anh con trai giằng thắt lưng, phản kháng lại người bố để bảo vệ mẹ. Đứng trước cảnh tượng đầy nghịch lí đó, người nghệ sĩ nhiếp ảnh như “chết lặng”, không tin những gì đang diễn ra trước mắt: “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há hốc mồm ra mà nhìn”. Sau đó, dường như không thể chịu đựng thêm được nữa và không thể làm ngơ trước cảnh bạo hình, Phùng đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”. Phùng không thể ngờ được đằng sau phát hiện về một cảnh đắt giá trời cho lại là cái xấu, cái ác không thể tin nổi. Đó là hiện thực đầy gai góc, gồ ghề, ngang trái và đối lập hoàn toàn với vẻ đẹp tuyệt bích, bình yên của tác phẩm nhiếp ảnh.

 

Tác giả Nguyễn Minh Châu đã đặt ra hai phát hiện về nghệ thuật và cuộc đời tưởng chừng như đầy nghịch lí nhưng lại có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ. Khi xây dựng hai phát hiện này, tác giả đã gián tiếp thể hiện quan niệm triết lí nhân sinh độc đáo: Cuộc sống con người vốn đa chiều, phức tạp. Hiện thực không phải là bức tranh màu hồng mà là bức tranh lẫn lộn những mảng tối sáng, cái đẹp, cái thiện tồn tại song song cùng cái xấu, cái ác. Nếu chỉ đứng từ xa, con người sẽ chỉ nhìn thấy một hiện thực mờ ảo như chiếc thuyền thấp thoáng, ẩn hiện trong làn sương sớm giữa biển khơi. Chỉ khi có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, chúng ta mới phát hiện được những nghịch lí cùng sự khuất lấp của cuộc sống phức tạp.

 

Như vậy, hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả với những ý nghĩa triết lí nhân sinh độc đáo, đồng thời làm nổi bật quan niệm của tác giả về mối quan hệ giữa nghệ thuật và con người. Đó cũng chính là một trong những nền tảng khắc họa giá trị nhân đạo sâu sắc và giá trị hiện thực của tác phẩm.

 

Bài văn phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng 

 

Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. Xuyên suốt quá trình sáng tác của mình, ông đã cho thấy một ngòi bút tài năng với quá trình sáng tạo không ngừng nghỉ. Bằng lối văn nhẹ nhàng mà sâu sắc, ông đã gửi gắm vào các hình tượng nhân vật của mình những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc sống, cuộc đời. Tác phẩm thành công và tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu phải kể đến Chiếc thuyền ngoài xa, một truyện ngắn được sáng tác vào năm 1983, viết về số phận con người giữa cuộc sống những ngày sau cách mạng. Trong tác phẩm, hai phát hiện độc đáo của nghệ sĩ Phùng được xem là chi tiết tiêu biểu để tác giả gửi gắm tư tưởng mình một cách sâu sắc và đầy đủ nhất.

 

Phùng là một người lính trở về từ cuộc chiến “vào sinh ra tử” của đất nước. Sau cách mạng, anh làm nghề nhiếp ảnh. Nhiệm vụ của Phùng được trưởng phòng giao phó là tạo ra được một tác phẩm nghệ thuật về thuyền và biển để hoàn thiện đủ cho bộ lịch năm sau. Theo yêu cầu đó, Phùng đã bắt tay vào công việc, trở lại chiến trường cũ miền Trung Trung Bộ, anh bắt đầu hành trình tìm kiếm một tấm ảnh nghệ thuật đắt giá. Cũng từ đây, Phùng có những phát hiện mới mẻ về nghệ thuật và cuộc đời.

 

Phát hiện đầu tiên của Phùng là một bức tranh đẹp từ cuộc sống tựa "bức họa cổ thời tàu". Dưới cặp mặt tinh tế và nhạy cảm của người nghệ sĩ, Phùng đã phát hiện một vẻ đẹp tận thiện, tận mỹ, đó là cảnh biển với "Mái thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum, đang hướng mặt vào bờ". Đó là một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ, một khung cảnh “đắt trời cho” mà khi Phùng thấy được như vỡ òa trong hạnh phúc.

 

Khung cảnh không chỉ tác động đến thị giác mà còn tác động đến lý trí và tâm hồn Phùng. Sợ lỡ mất giây phút diệu kỳ ấy, Phùng đã vội đưa chiếc máy ảnh của mình lên bấm liên hồi để thu lấy tất cả những khoảnh khắc đẹp nhất của bức tranh cuộc sống. Khung cảnh đẹp đẽ được phát hiện sau bấy lâu tìm kiếm đã làm trái tim Phùng thực sự rung động và hạnh phúc. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa không gian mờ sương của biển cả khiến lòng người nghệ sĩ trở nên trong trẻo, tinh khôi, trong giây phút đó, Phùng cảm nhận được sự trong ngần của chính tâm hồn mình, anh nhận ra rằng "cái đẹp chính là đạo đức". Có thể thấy qua phát hiện đầu tiên của Phùng, tác giả đã gửi gắm một thông điệp về nghệ thuật sâu sắc: Để làm nên một tác phẩm nghệ thuật ý nghĩa đòi hỏi mỗi người nghệ sĩ phải cất công tìm tòi, khám phá, bỏ công sức và quá trình lâu dài, bền bỉ. Tác phẩm nghệ thuật có giá trị phải là một tác phẩm có tác động đến tư tưởng, tình cảm và tâm hồn con người, khiến cho "con người gần người hơn".

 

Phát hiện thứ hai của Phùng là phát hiện về một cuộc đời đau thương ẩn sau sự hoàn mỹ, toàn bích của bức tranh nghệ thuật được Phùng khám phá trước đó. Một sự thật nghiệt ngã được phơi bày khi chiếc thuyền từ xa tiến lại gần bờ. Một người đàn bà ấy có ngoại hình cao lớn, thô kệch, khuôn mặt mệt mỏi bước ra từ chiếc thuyền, đi cùng một người đàn ông mái tóc tổ quạ, hai con mắt tràn đầy vẻ giận dữ, độc ác. Họ bước xuống thuyền, đi nhanh vào bãi bờ, người đàn ông nhanh chóng lấy chiếc thắt lưng lo bản quất tới tấp vào người vợ của mình. Hành động hùng hổ, người đàn giáng xuống tấm thân người đàn bà những nhát quất đầy hung bạo. Vừa đánh hắn vừa nghiến răng ken két, con mắt tràn ngập sự giận dữ. Vừa đánh hắn vừa quát: “Mày chết đi. cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”, cứ mỗi nhát danh của hắn là một tiếng rên rỉ đầy đau đớn cất lên. Nhưng kỳ lạ là người đàn bà ấy không hề phản kháng, trách móc hay chạy trốn để thoát khỏi trận đòn roi tàn nhẫn mà lặng lẽ cam chịu.

 

Đứng trước cảnh tượng đó, Phùng không khỏi ngạc nhiên, bất ngờ, ngỡ ngàng há hốc mồm như không hiểu chuyện gì đang xảy ra trước mắt mình. Với một người từng chiến đấu nơi chiến trận để giành lại độc lập, yên vui cho nhân dân, bắt gặp cảnh bất công khiến Phùng không chịu được, Phùng cũng không thể nào chấp nhận một hiện thực nghiệt ngã, cuộc sống và số phận con người sau chiến tranh lại trớ trêu, khổ cực đến như vậy. Cũng vừa mới đây thôi, bức tranh nghệ thuật đẹp đẽ đã khiến anh nhận ra cái đẹp chính là đạo đức, vậy mà một hiện thực "phi đạo đức" lại vừa xảy đến trước mắt , điều đó khiến Phùng không khỏi chua xót, cay đắng. Với phát hiện thứ hai, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc một thông điệp đầy ý nghĩa về nghệ thuật và cuộc sống, giống như nhà văn Nam Cao từng nói “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc sống và vì cuộc sống.

 

Hai phát hiện của Phùng đều gắn liền với hình ảnh chiếc thuyền chài vùng biển. Ở khoảng cách xa, trong màn sương sớm, chiếc thuyền hiện lên thật đẹp, đó là vẻ đẹp của nghệ thuật. Khi tiến lại gần, một hiện thực trần trụi được hiện ra, đó là thực tế của cuộc sống. Nghệ thuật không thể che giấu những thô ráp, nghiệt ngã của cuộc sống, nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc sống, phản ánh cuộc sống. Để có được điều ấy, đòi hỏi người nghệ sĩ phải dành tâm sức tìm kiếm, sáng tạo, phải đặt cả trí tuệ và tâm hồn mình vào mỗi tác phẩm. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa trở thành chi tiết đầy ý nghĩa trong hai phát hiện độc đáo của Phùng.

 

Có thể nói, hai phát hiện của Phùng là yếu tố quyết định và làm nên tầng giá trị tư tưởng cho truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Bằng vốn sống phong phú cùng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Minh Châu làm nên thành công của tác phẩm.

 

6. Phân tích người đàn bà làng chài trong chiếc thuyền ngoài xa

Bài văn phân tích người đàn bà làng chài trong chiếc thuyền ngoài xa

 

Chiếc thuyền ngoài xa đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quý của bà.

 

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

 

Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

 

Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chi mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị.

 

Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

 

Người đàn bà bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho chị.

 

Bài văn phân tích người đàn bà làng chài trong chiếc thuyền ngoài xa

 

Ai đó đã từng nói “ Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Kim Lân với truyện ngắn “Vợ nhặt” và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trường hợp như vậy. Nếu như với khả năng viết rất hay về nông thôn và cuộc sống của người dân quê, Kim Lân xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt qua tình huống truyện độc đáo thì với phong cách truyện đậm chất tự sự-triết lí, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những nghịch lí trong cuộc sống của người đàn bà làng chài. Qua cả hai tác phẩm, các tác giả đều cho ta thấy được vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn.

 

Có thể nói, trong truyện ngắn "Vợ nhặt", nhân vật người vợ nhặt tuy không phải là nhân vật chính nhưng vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm.Tuy là một con người vô danh nhưng nhà văn đã xây dựng cho nhân vật của mình một cá tính đậm nét. Được khắc họa sống động theo lối đối lập giữa bên trong và bên ngoài, ban đầu và về sau, người vợ nhặt hiện lên với đầy đủ những phẩm chất của con người bình dị trong nạn đói thê thảm Từ một cô con gái “ngồi vêu ra ở cửa nhà kho” chao chát, chỏn lỏn đến một nàng dâu hiền hậu, đảm đang, đúng mực là một hành trình đầy bất ngờ với bao biến động trong cuộc đời nhân vật. Nhà văn đã chọn được tình huống truyện thật độc đáo để nhân vật tự bộc lộ giá trị của mình.

 

Ở đầu tác phẩm, những vẻ đẹp của người vợ nhặt bị che khuất bởi những con số không tròn trĩnh: không quê quán, không nghề nghiệp, không cả một cái tên, không nhan sắc, không lòng tự trọng. Cuộc sống đói khổ càng tô đậm sự xấu xí của thị: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người “gầy sọp”, “trên cái khuôn mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Khi nghe tiếng hò của Tràng, thị “lon ton chạy theo” đẩy xe thóc cùng, hôm sau lại “sầm sập chạy đến”, “cong cớn” đứng trước mặt anh ta để đòi “nợ” rồi “cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”. Giữa sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc chết đói để giữ sĩ diện hoặc bỏ lòng tự trọng sang một bên để bám víu lấy sự sống, thị đã chọn cách thứ hai.

 

Song, qua tiến trình của câu chuyện, con người thực sự của nhân vật người vợ nhặt dần hiện ra dưới ngòi bút truyện tài hoa của Kim Lân. Thị “rón rén, e thẹn, đầu cúi xuống, chân bước díu vào nhau” khi đi qua xóm ngụ cư, trên đường về nhà Tràng. Ở đây, ta chỉ thấy một cô gái hiền hậu, biết ý tứ và ngượng ngùng một cách thật dễ thương chứ không còn cái “cong cớn” vô duyên lúc trước. Buổi sáng sau khi về làm vợ Tràng, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp, nấu cơm và cư xử, nói năng đúng mực khiến ngay cả Tràng cũng ngạc nhiên vì sự thay đổi ấy. Thị đã trở thành người vợ đảm, người con dâu đảm đang biết lo toan việc nhà. Phải chăng đây mới chính là bản chất tốt đẹp của con người vợ nhặt? Ngay cả trong chi tiết theo không Tràng về làm vợ của thị, nếu xét kĩ, ta sẽ thấy hành động ấy thực chất xuất phát từ khao khát tình yêu, hạnh phúc và tổ ấm gia đình cháy bỏng của những người nông dân bình dị. Tóm lại, với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt với những vẻ đẹp tâm hồn đáng được trân trọng và ngợi ca.

 

Bên cạnh người “vợ nhặt”, nhân vật người đàn bà hàng chài trong “CTNX” cũng để lại ấn tượng sâu sắc. Là nhân vật chính, nhân vật này có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc thể hiện giá trị tư tưởng của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét bằng bút pháp hiện thực theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất. Xuất hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám phá của nhân vật Phùng, nhân vật người đàn bà làng chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo âu và không khỏi trăn trở.

 

Xuất hiện trước mắt độc giả , người đàn bà làng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: than hình cao lớn, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.

 

Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà làng chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.

 

Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.

 

Tuy nhiên, giữa hai nhân vật cũng có nhiều điểm khác biệt. Vẻ đẹp của người vợ nhặt được khắc họa qua những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói thê thảm. Thị như một luồng gió mới "lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối" của những người dân xóm ngụ cư cũng như gia đình Tràng. Trong khi đó, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại là phẩm chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính trong tình trạng bạo lực gia đình. Nhân vật này không khỏi khiến ta băn khoăn, trăn trở về cách nhìn nhận con người cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Sở dĩ có sự khác biệt ấy là do phong cách nghệ thuật và thời điểm sáng tác của hai nhà văn. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển biến đổi từ thấp đến cao, mang cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kì kháng chiến. Trong khi đó nhân vật người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại. Nhân vật này thể hiện rõ cảm hứng thế sự-đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

 

Tóm lại, người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài là hai nhân vật được xây dựng rất thành công của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu. Tuy có nhiều điểm khác nhau trong phong cách nhưng với tinh thần nhân đạo cao cả, hai nhà văn đều khám phá và nâng niu trân trọng những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Qua hai tác phẩm, các tác giả còn cho chúng ta thêm tin tưởng vào sự bất diệt của những phẩm chất tốt đẹp trong con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Với tất cả giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy, chắc chắn cả hai nhân vật cũng như tên tuổi của Kim Lân và Nguyễn Minh châu sẽ có sức sống lâu dài trong kho tàng văn học dân tộc.

 

Bài văn phân tích người đàn bà làng chài trong chiếc thuyền ngoài xa

 

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

 

Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.

 

Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người đàn bà trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.

 

Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình.

 

Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời.

 

Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không hé răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.

 

Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?

 

Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.

 

Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.

 

Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ám ảnh rất nhiều người nữa.

 

Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó.

 

Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.

 

7. Phân tích chiếc thuyền ngoài xa nhân vật phùng

Bài văn phân tích nhân vật Phùng 

 

Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của ông gửi gắm nhiều bài học giá trị. Nổi bất trong tác phẩm là nhân vật Phùng.

 

Trước hết, Phùng được xây dựng với tư cách là một người nghệ sĩ chân chính, có trách nhiệm với công việc. Theo yêu cầu của trưởng phòng, nhiếp ảnh Phùng đã quyết định đi về một vùng biển cách Hà Nội ngoài sáu trăm cây số để thực hiện một bộ sưu tập chuyên đề về thuyền và biển. Nhân chuyến đi, anh cũng muốn thăm người đồng đội cũ của mình là Đẩu - nay đã là chánh án của một tòa án huyện. Phùng đã phục kích mấy buổi sáng mà vẫn chưa chụp được bức ảnh nào. Sau nhiều ngày, anh đã chớp được ra một cảnh “trời cho đắt giá”: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích…”. Trước vẻ đẹp toàn bích đó, Phùng cảm thấy bối rối “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Trong khoảnh khắc đó, Phùng tưởng chính mình “vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong gần tâm hồn”. Sau khi thu vào máy ảnh khung cảnh tuyệt diệu đó, Phùng thầm nghĩ có thể trở về ngay lập tức.

 

Không chỉ là một nghệ sĩ, Phùng cũng là một con người với trái tim giàu tình yêu thương. Anh phát hiện ra đằng sau khung cảnh “trời cho đắt giá” là một cảnh tượng đau lòng. Từ chiếc thuyền nhỏ đẹp đẽ vừa rồi, một người đàn bà thô kệch xấu xí bước ra. Khuôn mặt của chị ta toát lên vẻ mệt mỏi. Theo sau là một người đàn ông với tấm lưng rộng, mái tóc tổ quạ, đôi mắt độc dữ. Người đàn ông đã “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”. Trước cảnh tượng đó, Phùng cảm thấy “kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu”, “cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, anh đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới để can ngăn, đến ngay cả anh cũng bị người đàn ông vũ phu đánh. Với nhạy cảm của một người nghệ sĩ, hiện thực về gia đình người đàn bà hàng chài đằng sau khung cảnh tuyệt đẹp đã giúp Phùng nhận ra rằng bài học to lớn. Đằng sau cái đẹp của ngoại cảnh là cái xấu xa của cuộc sống bị khuất lấp. Và người nghệ sĩ cần phải có cái nhìn đa diện trước cuộc sống.

 

Đặc biệt, k hi ở tòa án huyện, Phùng đã được lắng nghe câu chuyện về người đàn bà hàng chài. Khi lắng nghe cuộc đối thoại giữa Đẩu và người đàn bà, Phùng “cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt” nên đã bước ra ngoài để nói chuyện với người phụ đàn bà khốn khổ này. Khi nghe chị ta cầu xin Đẩu đừng bắt mình bỏ chồng, Phùng cảm thấy bất bình, khó hiểu. Chỉ đến khi nghe xong toàn bộ câu chuyện về người đàn bà hàng chài, anh mới thấy như có “một cái gì vừa mới vỡ ra”. Phùng hiểu được rằng không nhìn hiện tượng mà đánh giá toàn bộ bản chất của vấn đề.

 

Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm những tư tưởng nhân văn sâu sắc. Chiếc thuyền ngoài xa là một truyện ngắn đặc sắc, giàu giá trị.

 

Bài văn phân tích nhân vật Phùng 

 

Có một nhà văn đã từng nói: “Cái đẹp chính là liều thuốc giúp trái tim của người nghệ sĩ thăng hoa hơn. Cái đẹp thanh lọc tâm hồn con người, cái đẹp khiến cho người ta trở nên thánh thiện và cao thượng hơn.” Tôi vẫn còn nhớ nhân vật Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) đã từng xúc động, bối rối như thế nào khi khám phá ra một vẻ đẹp toàn bích lúc ngắm nhìn bức tranh chiếc thuyền mờ ảo trong sương khói. Nhân vật Phùng cũng từ bức tranh toàn bích này khám phá ra muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống đời thường. Và nhân vật này, cũng đã giúp cho nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện được tư tưởng, triết lý nhân văn sâu sắc về vẻ đẹp con người, vẻ đẹp nghệ thuật, vẻ đẹp cuộc đời.

 

Nguyễn Minh Châu - cây bút tiên phong của văn học Việt nam thời kỳ đổi mới đã có nhiều tác phẩm ấn tượng. Một trong những tác phẩm thành công của ông là "Chiếc thuyền ngoài xa". Truyện ngắn được sáng tác năm 1983 đến năm 1987 in trong truyện ngắn cùng tên. Truyện ngắn tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, tiêu biểu cho xu hướng chung của văn học thời kì đổi mới. truyện ngắn có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Tình huống ấy được thể hiện qua nhãn quan của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Nhân vật này được coi là nhân vật thể hiện triết lý cũng như quan điểm của tác giả, là phương tiện để tác giả mang suy nghĩ của mình đưa đến cho người đọc.

 

Nhân vật Phùng được khám phá ở vẻ đẹp của một người lính và của một người nghệ sĩ. Đó là con người có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, mang trong mình tình yêu cái đẹp mãnh liệt. Đồng thời anh cũng là một con người nhân hậu, giàu trách nhiệm với cuộc đời. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo yêu cầu của trưởng phòng, anh tới một vùng biển từng là chiến trường xưa của anh để chụp những bức ảnh cho tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển. Tại đây anh đã nhận thức được nhiều điều. Cảm xúc của nhân vật này qua những phát hiện của mình đã thể hiện nội tâm cũng như suy nghĩ của anh, giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp nơi con người này.

 

Trước hết, anh là một nghệ sĩ chân chính, nhạy cảm và có tình yêu cái đẹp mãnh liệt. Điều đó được thể hiện qua tâm hồn tinh tế với những rung cảm rất mãnh liệt, luôn khao khát tìm kiếm cái đẹp hoàn mỹ. Anh sẵn sàng bỏ ra hàng tuần để săn lùng bức ảnh đẹp. Nhờ vậy mà sau mấy buổi sáng "phục kích", anh đã chụp được "cảnh đắt trời cho". Đó là cảnh ban mai vùng ven biển, với "mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào". Với tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đắm say, ca tụng cảnh đẹp như "bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ". Rồi anh cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc" bối rối, trái tim như có gì đó bóp thắt vào". Anh thấy được cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân - thiện - mỹ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, trở nên trong trẻo và thanh khiết. Từ đó, anh nhận thức "bản thân cái đẹp là đạo đức". Bằng con mắt và tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đã đưa đến cho người đọc một quan niệm về cái đẹp. Đó chính là cái đẹp là phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái hoàn mỹ.

 

Phẩm chất nghệ sĩ của Phùng thể hiện qua cách anh cảm nhận sâu sắc về cuộc sống và con người. Phùng đã phát hiện ra sự đối lập trong bức tranh miền biển: Phát hiện thứ nhất đầy vẻ thơ mộng. Anh cảm nhận được vẻ đẹp mơ màng, huyền ảo của thiên nhiên vùng biển, đặc biệt là hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương. Từ góc độ của một người nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng hài lòng với những gì mình đã kịp ghi lại trong ống kính. Bức ảnh ấy là sáng tạo, là công sức của một đời nghệ sĩ, là khoảnh khắc bùng phát của niềm đam mê nghệ thuật. Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí khi con thuyền tiến vào bờ. Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến một sự thật nghiệt ngã, sự bạo hành gia đình. Người chồng đánh đập vợ một cách dã man, vừa đánh vừa chửi "mày chết đi cho ông nhờ", "chúng mày chết đi cho ông nhờ". Người vợ thì cam chịu trận đòn, không hề phản kháng lại. Đứa con thương mẹ, xông vào đánh lại bố thì bị ăn hai cái tát. Một cảnh bạo lực gia đình diễn ra ngay trước mắt Phùng. Nó hoàn toàn trái ngược với cảnh đẹp thơ mộng nơi đây. Mặc dù khám phá ra những đối lập song Phòng không quay lưng lại với sự thật cho dù nó phũ phàng, trần trụi. Anh đã hai lần chứng kiến cảnh người đàn ông đánh đập vợ một cách tàn nhẫn và trực tiếp nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện, từ đó dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn của Phùng về nghệ thuật và cuộc đời: từ mơ mộng, bay bổng đến sững sờ, vỡ lẽ, từ thương hại, bất bình đến cảm thông, thấu hiểu. Đó cũng là quá trình đi tìm bản chất nghệ thuật và cuộc sống của người nghệ sĩ.

 

Không chỉ là người có tâm hồn nghệ sĩ, nhân vật Phùng còn là một người lính với tấm lòng nhân hậu, cao đẹp. Anh là chiến sĩ từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, luôn tôn trọng lẽ phải và sự công bằng xã hội. Hai lần chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ, Phùng xông vào can thiệp, chân thành muốn giúp đỡ người đàn bà đáng thương, dũng cảm bênh vực những phận người khốn khổ, mở rộng hồn mình để lắng nghe “những vang động của đời”. Với anh - một người đã trải qua bao nhiêu khó khăn, vượt qua thời kỳ khó khăn của chiến tranh, anh không thể để cảnh bạo hành này tiếp tục diễn ra. Anh đã nói chuyện này với chánh án Đẩu- bạn của anh. Anh mong muốn mình có thể giúp gì được cho người đàn bà nghèo khổ kia. Quả là một người chính nghĩa, luôn đứng về lẽ phải, muốn bảo vệ lẽ phải và phê phán tố giác những điều xấu, điều ác.

 

Ngoài ra, nhân vật Phùng còn là người chịu thay đổi suy nghĩ cho phù hợp với hoàn cảnh, không bảo thủ, chấp nhận những cái sai của mình. Ngay từ ban đầu, khi chụp được "cảnh đắt trời cho", anh đã cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nhưng khi chứng kiến cảnh bạo hành bên chiếc xe tăng hỏng cùng với những tâm sự của người đàn bà hàng chài, anh đã nhận ra những điều mới. Anh nhận thức được là phải nhìn nhận mọi việc một cách toàn diện Triết lý mà Phùng nhận ra cũng chính là thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. Nghệ thuật không chỉ bắt nguồn từ cuộc sống mà phải gắn liền với cuộc sống.

 

Xuất thân từ một người lính bước ra từ chiến tranh, Phùng đã có quá trình tự nhận thức về cuộc đời: đằng sau câu chuyện của gia đình hàng chài là cả một vấn đề nhân sinh và để nhận ra được điều đó cần phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc. Nhân vật Phùng thuộc kiểu nhân vật tự nhận thức. Anh hội tụ trong mình vẻ đẹp của một người nghệ sĩ chân chính và vẻ đẹp của một người lính có tấm lòng nhân hậu. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành công nhân vật này trong một tình huống đầy nghịch lý với điểm nhìn trần thuật độc đáo. Câu chuyện được kể dưới cái nhìn của Phùng nên càng gần gũi, chân thực và sâu sắc hơn.

 

Xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, mang ý nghĩa phát hiện về đời sống. Tác giả đã tạo ra nhiều tình huống như thế vừa nối tiếp nhau trong mạch truyện, lại vừa đột ngột, bất ngờ giúp người đọc nhận ra bản chất của sự việc một cách thú vị, thấm thía để hiểu sâu sắc chủ đề của tác phẩm. Các tình huống truyện cứ thế nối tiếp nhau và được Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào, ngày càng xoáy sâu hơn để phát hiện, khám phá tính cách con người và sự thật cuộc đời. Nghệ thuật kể chuyện sinh động: người kể chuyện là Phùng. Qua đó tác giả đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể trở nên khách quan, chân thực, giàu tính thuyết phục.

 

Những thay đổi trong nhận thức của nhân vật Phùng là bước ngoặt quan trọng giúp nhà văn Nguyễn Minh Châu truyền tải thông điệp của mình. Thêm vào đó, đây cũng chính là sự củng cố cho bản thân nhà văn với tư duy văn học đầy mới mẻ của mình: “Văn học và đời sống là những đường tròn đồng tâm và tâm điểm chính là con người.”

 

Bài văn phân tích nhân vật Phùng 

 

Nghệ thuật có phải lúc nào cũng chỉ bao hàm những cái đẹp hay không? Không, nghệ thuật sẽ không có giá trị nếu nó chỉ tồn tại bấy nhiêu đó, mà nghệ thuật là vì con người, vì cuộc đời mà trở nên đẹp hơn. Thế nên, nghệ thuật sẽ mất đi cái chân thiện mỹ của nó nếu nghệ thuật không bao gồm cả những cái xấu, cái tồi tàn để làm bật dậy những bản tính tốt đẹp của những người yêu nghệ thuật. Cũng giống như hình ảnh người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa, một truyện ngắn mang phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu. Ông được mệnh danh là cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Chính cái lối viết độc đáo của nhà văn đã khắc họa hình ảnh, những giá trị sâu sắc thông qua nhân vật Phùng.

 

Trước hết, Phùng là một người lính trở về với chiến trường xưa, nơi anh từng chiến đấu trong thời kì kháng chiến chống đế quốc Mỹ với tư cách là một nghệ sĩ nhiếp ảnh. Anh được giao nhiệm vụ thực hiện bộ lịch nghệ thuật mà trong đó anh phải bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Để thâu tóm và chiêm ngưỡng được cái vẻ đẹp “trời cho” ấy, anh đã phải chờ đợi kiên nhẫn, “phục kích” hết mấy buổi sáng. Thế là cuối cùng cái sự chờ đợi kiên nhẫn của anh cũng được đền đáp. “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cách “đắt” trời cho như vậy”. Cảnh trời đẹp đẽ đến nỗi khiến Phùng ngỡ rằng trước mắt anh là “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Mà trong khung cảnh đầy những sương mù trắng vây quanh, người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc trên mui khum khum của một chiếc thuyền đang tiến vào bờ. Tất cả không gian như lặng tờ, nhìn qua mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó như một vẻ đẹp “toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Phải chăng đó là cái nhức nhói trong sung sướng của một người nghệ sĩ khi gặp được cảnh tượng đầy đẹp đẽ và có sức hút như thế. Vậy nên Phùng là một người nghệ sĩ chân chính, là người dễ xúc động trước cái đẹp nên mới mang những xúc cảm như thế. Chỉ có người yêu nghệ thuật mới thấy cái Chân Thiện Mỹ trong cái đẹp. “Chẳng biết ai đó đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức?”

 

Phùng còn là một người lính ghét áp bức bất công, sẵn sàng làm mọi thứ vì lẽ phải và công bằng. Là một nghệ sĩ anh ghét những cái xấu và lên án chúng. Và hơn thế, anh còn là người lính không sợ chết để chiến đấu vì Tổ quốc nên anh sao có thể đứng yên khi thấy cảnh lão đàn ông quật chiếc thắt lưng tới tấp vào lưng người đàn bà như thế. Anh là người nhìn đời bằng con mắt nghệ sĩ, anh với cái nhìn rung động, say mê trước cái đẹp nay lại bàng hoàng khi chứng kiến một cảnh bạo hành như thế. Anh cứ “đứng há mồm ra mà nhìn”. Rồi cũng chẳng biết khi nào, cái bản tính ghét cay ghét đắng cái xấu lại nổi lên trong Phùng, anh “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Anh chẳng quan tâm đến thứ quý giá nhất của một người nghệ sĩ nhiếp ảnh. Anh tức giận trước cái hành động bạo hành của lão đàn ông kia. Phùng vứt bỏ phương tiện nghệ thuật để cứu lấy người vô tội, để ngăn chặn cái ác đang diễn ra trước mắt. Dù rằng không nhanh bằng cách thằng bé Phác chạy đến cứu mẹ nó. Nhưng đó là hành động biểu hiện cho sự chọn lựa của người nghệ sĩ, đó là con người, và vì con người.

 

Lần thứ hai, “Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cảnh cô chị gái tước đoạt con dao găm mà đứa em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương”. “Anh không thể nén chịu hơn được nữa”, Phùng xông ra ngăn lão đàn ông, chấm dứt hành động độc ác của lão, và chính anh cũng bị thương. Phùng khi nghe người đàn bà từ chối việc ly hôn đã không kìm được bình tĩnh, đứng dậy vén màn và ngồi xuống trước mặt người đàn bà làng chài. Khi nghe lời giãi bày của một người học vấn không cao như người đàn bà làng chài đã làm cho người nghệ sĩ nhiếp ảnh phải suy nghĩ, phải nghiền ngẫm về cuộc đời và nghệ thuật.

 

Vốn dĩ nhìn đời bằng nghệ thuật và hết lòng vì cái đẹp, ngăn cản cái xấu diễn ra, Phùng nhận ra bi kịch của gia đình làng chài, gia đình của Phác. Cuộc đời nếu chỉ nhìn ở một góc độ thì liệu rằng ta có thể nhìn thấu cả nỗi khổ của người khác. Ví như cảnh mũi thuyền trong làn sương thật đẹp biết bao, nhưng trên chiếc thuyền ấy lại chở một tấn bi kịch mà nếu như Phùng không chứng kiến thì ấn tượng của anh vẫn mãi là một cảnh đẹp. Nếu anh không gặp người đàn bà làng chài thì anh đâu biết về lý do bà ta từ chối ly hôn với người chồng vũ phu. Một người ăn học ít như mụ cũng thấu tình đạt lý tới mức khiến Phùng suy nghĩ về cuộc đời và suy nghĩ về góc nhìn cuộc sống. “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”. “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. “Đàn bà ở thuyền chúng tôi không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Vậy đấy, cuộc đời lắm lý do khiến con người ta khổ. Mà nghệ thuật nếu chỉ xuất phát và tạo ra cái đẹp thì liệu có khiến người say mê nghệ thuật như Phùng hiểu đời hơn không?

 

Tóm lại, nhân vật Phùng là người chứng kiến toàn bộ quá trình của câu chuyện, là một người lính ghét cái xấu hoành hành, và là người nghệ sĩ trân trọng cái đẹp chân thiện mỹ. Phùng còn một nhân vật mang thông điệp mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm đến độc giả. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước hết hãy là một nghệ sĩ biết rung động đối với những điều bình dị xuất phát từ những điều nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống để từ đó xây dựng những giá trị nghệ thuật làm con người trở nên tốt đẹp hơn. “Sống đã rồi hãy viết hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân” (Nam Cao).

 

Bài văn phân tích nhân vật Phùng 

 

Văn học hiện thực - lãng mạn 1930 - 1945 khá nổi bật với tuyến nhân vật tư tưởng Điền trong “Giăng sáng” hay Hộ trong “Đời thừa” của văn Nam Cao. Các nhân vật luôn có sự đấu tranh nội tâm để nhận thức và triết lí sống. Tôi khá bất ngờ khi một lần nữa bắt gặp tuyến nhân vật này trong văn học hiện đại thời kì Đổi mới. Đó là Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Nhân vật Phùng mang nhiều ý nghĩa về quan niệm nghệ thuật và triết lí nhân sinh của nhà văn.

 

Phùng là người nghệ sĩ tài năng, có lòng say mê với nghề và trách nhiệm với công việc của mình. Với nhiệm vụ của Trường phòng giao phó, Phùng quyết tâm chụp được những bức ảnh chất lượng nhất để hoàn thiện bộ lịch năm ấy. Sau nhiều ngày “phục kích” trên bãi biển cách Hà Nội 600km, Phùng phát hiện ra bức tranh thiên nhiên tựa “cảnh đắt trời cho”, “tuyệt mĩ và toàn bích”. Chỉ một người nghệ sĩ tài năng và nhạy cảm trước cảnh đẹp mới có thể nhận ra bức tranh như thế, một “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng của mặt trời chiếu vào”, “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng vào mặt bờ”… Phùng là người nghệ sĩ chân chính khi được khám phá và sáng tạo, khi được cảm nhận cái đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và cuộc đời. Phùng dường như được Nguyễn Minh Châu gắn cho sứ mệnh của người nghệ sĩ: phát hiện và mang lại cái đẹp đến với cuộc đời.

 

Phùng là người nghệ sĩ có tấm lòng bao dung, không chấp nhận sự bất công nhưng lại có cái nhìn quá đơn giản về cuộc sống. Chứng kiến cảnh tượng người đàn bà bước ra từ con thuyền ngư phủ và bị chồng đánh, Phùng liền vứt chiếc máy ảnh xuống đất để nhào tới bênh vực người đàn bà. Phùng không chịu thờ ơ trước cái bất công, trước nỗi đau của người khác. Phùng còn đề nghị chị ly hôn để tự giải thoát hoàn cảnh bản thân. Khi nghe lời giãi bày của người đàn bà ở tòa án huyện đặc biệt là lời van xin khẩn thiết, Phùng không thể hiểu được, Phùng không lí giải được.

 

Chính điều này đã cho thấy Phùng là người có cái nhìn cuộc sống còn đơn giản, không hiểu được cái lí của con người phải sống cuộc đời trong vòng vây cái đói nghèo, không hiểu được tình thương đan cài với sự thù hận, giữa niềm vui với nỗi buồn. Phùng dường như vụn vỡ lẽ: lòng tốt trong cuộc đời là thứ đáng quý nhưng chưa đủ, phải gắn nó với từng hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau.

 

Nguyễn Minh Châu là nhà văn thường xây dựng kiểu nhân vật tư tưởng tự nhận thức, nhân vật Phùng cũng thuộc tuyến nhân vật này. Phùng là người nghệ sĩ luôn có ý thức hoàn thiện nhân cách. “Xách máy đi lang thang đến tận khuya”, chi tiết này gián tiếp chứng tỏ nhận thức của Phùng đã thay đổi và anh ta để cho tâm hồn mình hòa vào một cảnh ít thi vị “trời bắt đầu nổi sóng”, “những mảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm”, “chiếc thuyền đang chống chọi với sóng giữa phá”… Người nghệ sĩ đã không còn chỉ tha thiết với thiên nhiên mỹ lệ mà còn biết hướng ống kính đến cuộc sống lam lũ, mưu sinh của con người, trăn trở với nỗi nhọc nhằn của cuộc sống cơ cực. Truyện kết thúc trong nỗi trăn trở của Phùng về hình ảnh người đàn bà cứ hiện ra sau mỗi lần anh nhìn bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa. “Mãi mãi về sau”, cụm từ này nhấn mạnh người nghệ sĩ sẽ phải mãi đau đáu về một kiếp nhân sinh.

 

Tóm lại, thông qua nhân vật Phùng trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu điển hình cho kiểu nhân vật tự nhận thức và mang thông điệp nhân đạo mới mẻ của nhà văn. Sau cùng, Phùng đã thay nhà văn tuyên ngôn: Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, xuất phát và quay lại để phục vụ cuộc sống.

 

Bài văn phân tích nhân vật Phùng 

 

Trong thể loại văn xuôi viết về người dân Việt Nam trước năm 1945 có rất nhiều tác phẩm để đời. Với cuộc sống cùng cực dưới ách thống trị của bọn chúa đất ở miền núi, chúng ta có "Vợ chồng A Phủ", hay chủ nghĩa anh hùng đậm chất sử thi - "Rừng Xà nu"... Nhưng sau đó, năm 1986, xã hội có sự thay đổi, nước ta xóa bỏ bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường vì thế văn học cũng có bước chuyển mình. Đề tài thế sự và đạo đức được các nhà văn xoáy sâu vào khai thác. Và "Chiếc thuyền ngoài xa" là một tác phẩm tiêu biểu cho thời kỳ ấy.

 

Được coi là "người mở đường tinh anh và tài năng nhất"( Nguyên Hồng), Nguyễn Minh Châu- cây bút tiên phong của văn học Việt nam thời kỳ đổi mới đã có nhiều tác phẩm ấn tượng. Một trong những tác phẩm thành công của ông là "Chiếc thuyền ngoài xa". Truyện ngắn được sáng tác năm 1983 đến năm 1987 in trong truyện ngắn cùng tên. Truyện ngắn tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, tiêu biểu cho xu hướng chung của văn học thời kì đổi mới. truyện ngắn có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Tình huống ấy được thể hiện qua nhãn quan của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Nhân vật này được coi là nhân vật thể hiện triết lý cũng như quan điểm của tác giả, là phương tiện để tác giả mang suy nghĩ của mình đưa đến cho người đọc.

 

Tình huống truyện trong tác phẩm là tình huống nhận thức, một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống nhận thức này là được dành cho nhân vật Phùng. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo yêu cầu của trưởng phòng, anh tới một vùng biển từng là chiến trường xưa của anh để chụp những bức ảnh cho tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển. Tại đây anh đã nhận thức được nhiều điều. Cảm xúc của nhân vật này qua những phát hiện của mình đã thể hiện nội tâm cũng như suy nghĩ của anh, giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp nơi con người này.

 

Trước hết, anh là người có tâm hồn nghệ sĩ.Sau mấy buổi sáng "phục kích", anh đã chụp được "cảnh đắt trời cho". Đó là cảnh ban mai vùng ven biển, với "mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào". Với tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đắm say, ca tụng cảnh đẹp như "bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ". Rồi anh cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc "bối rối, trái tim như có gì đó bóp thắt vào". Anh thấy được cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân- thiện - mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, trở nên trong trẻo và thanh khiết. Từ đó, anh nhận thức "bản thân cái đẹp là đạo đức". Bằng con mắt và tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đã đưa đến cho người đọc một quan niệm về cái đẹp. Đó chính là cái đẹp là phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái hoàn mĩ.

 

Không chỉ là người có tâm hồn nghệ sĩ, nhân vật Phùng còn là một người tốt bụng, có lòng đồng cảm với mọi người, mang những đức tính của một người chiến sĩ. Điều này được thể hiện qua phát hiện thứ hai của anh. Từ chiếc thuyền đẹp như ngư phủ kia, bước ra một cặp vợ chồng: người đàn bà xấu xí mỏi mệt, người đàn ông thô kệch dữ dằn. Họ là những con người hiện thân cho sự lam lũ, nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài. Sẽ không có gì nếu cảnh tượng nghiệt ngã này không xảy ra trước mắt anh. Người chồng đánh đập vợ một cách dã man, vừa đánh vừa chửi "mày chết đi cho ông nhờ", "chúng mày chết đi cho ông nhờ". Người vợ thì cam chịu trận đòn, không hề phản kháng lại. Đứa con thương mẹ, xông vào đánh lại bố thì bị ăn hai cái tát. Một cảnh bạo lực gia đình diễn ra ngay trước mắt Phùng. Mặc dù đã chứng kiến biết bao cảnh đau thương trên chiến trường nhưng anh vẫn không khỏi kinh ngạc trước sự việc này. Nó hoàn toàn trái ngược với cảnh đẹp thơ mộng nơi đây. Với anh- một người đã trải qua bao nhiêu khó khăn, vượt qua thời kì khó khăn của chiến tranh, anh không thể để cảnh bạo hành này tiếp tục diễn ra. Anh đã nói chuyện này với chánh án Đẩu- bạn của anh. Anh mong muốn mình có thể giúp gì được cho người đàn bà nghèo khổ kia. Quả là một người chính nghĩa. Anh luôn đứng về lẽ phải, muốn bảo vệ lẽ phải và phê phán tố giác những điều xấu, điều ác.

 

Ngoài ra, nhân vật Phùng còn là người chịu thay đổi suy nghĩ cho phù hợp với hoàn cảnh, không bảo thủ, chấp nhận những cái sai của mình. Ngay từ ban đầu, khi chụp được "cảnh đắt trời cho", anh đã cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nhưng khi chứng kiến cảnh bạo hành bên chiếc xe tăng hỏng cùng với những tâm sự của người đàn bà hàng chài, anh đã nhận ra những điều mới. Anh nhận thức được là phải nhìn nhận mọi việc một cách toàn diện Triết lý mà Phùng nhận ra cũng chính là thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. Nghệ thuật không chỉ bắt nguồn từ cuộc sống mà phải gắn liền với cuộc sống.

 

Nhân vật Phùng là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm này của Nguyễn Minh Châu. Anh vừa là nhân vật tạo tình huống, vừa là nhân vật gắn kết các sự kiện chuyện với nhau, thể hiện thông điệp mà tác phẩm muốn gửi gắm. Là một người có tâm hồn chiến sĩ và nghệ sĩ, Phùng đã để lại nhiều ấn tượng tốt trong lòng người đọc.

 

Trên đây là những chia sẻ của mình về dàn ý và một số bài văn phân tích chiếc thuyền ngoài xa hay, ngắn gọn. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của mình nhé.




HỌC TIẾNG ANH QUA 5000 PHIM SONG NGỮ


Khám phá ngay !