Dàn ý và Top 10 bài văn kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em hay nhất

Trong bài viết hôm nay mình sẽ chia sẻ với các bạn về kể lại truyện thánh gióng bằng lời văn của em một cách chi tiết nhất nhé.

1. Dàn ý kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em

1. Mở bài

 

- Truyện xảy ra vào đời Hùng vương thứ sáu, ở làng Gióng, tỉnh Bắc Ninh (cũ), nay thuộc ngoại thành Hà Nội.

 

- Cậu bé làng Gióng có công đánh đuổi giặc Ân, được nhân dân suy tôn là Thánh Gióng.

 

2. Thân bài:

 

* Diễn biến của truyện:

 

- Hai vợ chồng già không có con.

 

- Một hôm bà vợ ra đồng, thấy vết chân lạ rất to, liền dặt bàn chân vào ướm thử.

 

- Bà thụ thai, sinh ra một đứa con trai.

 

- Lên ba tuổi, đứa bé không biết đi, không biết nói.

 

- Giặc Ân xâm phạm bờ cõi nước ta.

 

- Vua sai sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước.

 

- Cậu bé chợt cất tiếng nói, bảo mẹ gọi sứ giả vào, nhờ sứ giả tâu với vua cấp cho mình giáp sắt, roi sắt, ngựa sắt để đi đánh giặc.

 

- Cậu bé lớn nhanh như thổi, cả làng góp gạo nuôi cậu.

 

- Sứ giả mang các thứ đến. Cậu bé vươn vai thành tráng sĩ, cưỡi ngựa sắt xông lên đánh đuổi quân thù. Roi sắt gãy, cậu nhổ tre đánh tiếp.

 

- Đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ cởi giáp sắt bỏ lại, cưỡi ngựa bay lên trời.

 

3. Kết bài:

 

* Kết thúc truyện:

 

- Vua ghi nhớ công lao cứu nước của Gióng, phong cho là Phù Đổng Thiên vương và lập đền thờ.

 

- Tháng tư hằng năm, làng mở hội lớn.

 

- Tre ở làng Gióng có màu vàng óng là vì ngựa sắt phun lửa.

 

- Ao hồ liên tiếp là do vết chân ngựa phi để lại.

 

- Một làng có tên là làng Cháy do lửa từ miệng ngựa phun ra.

 

 

kể lại truyện thánh gióng bằng lời văn của em

Truyền thuyết về thánh gióng

 

2.Bài văn mẫu kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em 

1. Bài văn 1

 

Trong chương trình văn học lớp 6, em đã được đọc rất nhiều câu chuyện cổ tích và truyền thuyết hay, nhưng câu chuyện để lại cho em ấn tượng sâu sắc nhất là truyện Thánh Gióng. Đó là câu chuyện kể về một người anh hùng đánh giặc giữ nước nổi tiếng.

 

Truyện kể rằng vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở một ngôi làng nọ có hai vợ chồng nghèo. Họ tuy tuổi đã cao nhưng mãi vẫn chưa có được một mụn con. Một hôm, người vợ đi ra đồng, nhìn thấy một bàn chân to liền đặt chân mình vào ướm thử. Nào ngờ, về nhà bà đã thụ thai. Đến tháng thứ mười hai, bà sinh ra một cậu con trai mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Hai vợ chồng mừng rỡ đặt tên đứa trẻ là Gióng. Thế nhưng niềm vui lại nhanh chóng biến thành nỗi lo khi hai vợ chồng thấy Gióng lên ba tuổi mà vẫn chưa biết nói, biết cười, đặt đâu nằm đó.

 

Bấy giờ, có giặc đến xâm lược bờ cõi nước ta. Nhà vua vô cùng lo lắng mới lệnh cho sứ giả đi khắp nơi rao tìm người hiền tài ra giúp nước. Vừa nghe thấy tiếng sứ giả loa truyền, cậu bé đã bỗng cất tiếng nói đòi mẹ cho gọi sứ giả vào gặp. Mẹ Gióng thấy con mình cất tiếng nói bèn vô cùng mừng rỡ, chạy đi mời sứ giả. Khi gặp sứ giả, Gióng liền bảo sứ giả về tâu với vua, làm cho mình một áo giáp sắt, một con ngựa sắt và một cái roi sắt để đi đánh giặc. Sứ giả nghe vậy liền về bẩm báo với nhà vua, nhà vua mừng rỡ truyền cho thợ làm gấp ngày đêm.

 

Kỳ lạ hơn, từ sau hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không thấy no. Cả làng cùng góp gạo nuôi Gióng, ai cũng mong cậu lớn nhanh, khỏe mạnh để giúp vua đánh giặc, cứu nước. Chẳng bao lâu sau, Gióng đã hoá thành một chàng trai cao to, khoẻ mạnh, nhận được những thứ mà mình yêu cầu từ nhà vua, Gióng lập tức lên đường đi đánh giặc. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội, phun lửa, lao thẳng vào đám giặc. Tráng sĩ phi ngựa đến đau, dẹp tan quân giặc đến đó. Roi sắt gãy, Gióng nhổ cả bụi tre để làm vũ khí. Lũ giặc sợ hãi, giẫm đạp lên nhau mà chạy. Tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc. Đến đây, một mình một ngựa, Gióng bay lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp, cả người và ngựa bay về trời.

 

Từ đó, vua nhớ công ơn, phong Gióng làng Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa sắt phi qua để lại ao hồ, rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng ả, hàng năm, nhân dân vẫn tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn của Thánh Gióng.

 

2. Bài văn 2

 

Ngày xửa ngày xưa, vào thời vua Hùng Vương thứ sáu, có một đôi vợ chồng già nổi tiếng lương thiện nhưng vẫn chẳng có lấy một mụn con. Cho đến một ngày, người vợ đi ra đồng thì chợt thấy một dấu chân to khổng lồ. Lấy làm ngạc nhiên, bà đưa chân mình vào ướm thử để đo xem dấu vết chân đó to đến cỡ nào. Thời gian thấm thoát trôi đi, người vợ chẳng còn nhớ đến vết chân ngày xưa nữa thì bỗng một ngày bà có thai. Hai vợ chồng bà lão mừng lắm, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Ấy thế mà đứa trẻ đó từ khi sinh ra lại chẳng biết nói, cũng không biết cười, không biết đi, chỉ đặt đâu thì nó nằm đấy. Hai ông bà từ mừng rỡ khi sinh được con đến lo lắng, buồn bã vì con.

 

Lúc bấy giờ, giặc Ân tràn sang xâm lược nước ta. Chúng khiến cho đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, tình cảnh đất nước lúc này đang ở thế "nghìn cân treo sợi tóc". Nhà vua sai sứ giả đi rao tin khắp nơi, nhằm tìm người tài đứng lên cứu giúp đất nước. Sứ giả đi rao tin cuối cùng cũng đến làng Gióng. Nghe tiếng sứ giả, cậu bé bỗng nhiên cất tiếng gọi mẹ: "Mẹ ơi, mẹ hãy mời sứ giả vào đây cho con". Thấy đứa con mình suốt bao tháng ngày không nói, không cười, nay bỗng dưng cất tiếng gọi mẹ, hai ông bà mừng lắm, liền mời sứ giả vào ngay.

 

Khi sứ giả vào nhà, cậu bé đã ngay lập tức yêu cầu sứ giả hãy về tâu với vua chuẩn bị đủ những vũ khí để đi đánh giặc: Ngựa sắt, áo sắt và tấm giáp sắt để phá tan lũ giặc xâm lược. Sứ giả mừng rỡ vội về tâu lên nhà vua chuẩn bị. Nhà vua cũng đồng ý ngay theo lời cậu bé. Càng lạ lùng thay, Thánh Gióng từ khi gặp được sứ giả của nhà vua thì lớn nhanh như thổi, cơm cha mẹ và dân làng thổi bao nhiêu cậu ăn cũng không đủ no, quần áo chẳng mấy chốc đều chật hết cả. Cậu bé chẳng mấy chốc mà hoá thành một chàng trai cao lớn, khoẻ mạnh, khí thế ngút trời.

 

Chẳng bao lâu, nhà vua sai người đem đến đủ cả những thứ mà Gióng yêu cầu. Nhận lấy đồ vua ban, Gióng lập tức lên đường đánh giặc. Cậu đi đến đâu đánh bại quân giặc đến đấy. Khi gậy sắt gãy, Gióng liền nhổ một bụi cỏ bên đường quật nhã bọn giặc ngoại xâm. Một hồi, ngựa của Gióng đã đến chân núi Sóc, Thánh Gióng liền cởi bộ giáp sắt đang mặc rồi cùng ngựa sắt bay thẳng lên trời.

 

Từ đó, để nhớ đến công lao của Gióng, nhà vua đã cho người lập đền thờ vị tướng này tại quê nhà của ông. Cho đến nay, vẫn còn rất nhiều dấu tích năm xưa được lưu lại và cứ tháng 4 hàng năm, người ta vẫn đến đền thờ Phù Đổng Thiên Vương để tưởng nhớ ông.

 

3. Bài văn 3

 

Vào đời Hùng vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức, nhưng lại không có con. Họ buồn lắm. Một hôm, người vợ ra đồng thấy một vết chân to khác thường. Thấy lạ, bà lão đặt bàn chân mình vào để ướm chừng bàn chân mình nhỏ hơn bao nhiêu. Thấm thoát thời gian trôi qua, bà lão có thai, rồi mười hai tháng sau bà sinh được bé trai khôi ngô tuấn tú. Hai vợ chồng già mừng lắm, đặt tên con là Gióng. Nhưng lạ thay, đứa trẻ đã lên ba mà không biết nói, không biết cười, không biết đi, đặt đâu thì nằm đó, khiến cho vợ chồng ông vô cùng lo lắng. 

 

Bấy giờ giặc Ân thế mạnh vô cùng, tràn vào xâm lược nước ta. Nhà vua bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người hiền tài đứng ra cứu nước. Đứa bé nghe được tiếng loa của sứ giả bỗng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con". Nghe được tiếng con, bà lão mừng rỡ chạy ra mời sứ giả theo lời con nói. Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua chuẩn bị cho ta một con ngựa sắt, một cái gậy sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này." Sứ giả nghe thấy thì lấy làm kinh ngạc vô cùng và cũng tỏ ý vui mừng, vội về tâu với nhà vua. Nhà vua ngay lập tức chấp thuận yêu cầu của cậu bé và sai người ngày đêm làm ra những đồ vật ấy.

 

Từ hôm gặp sứ giả, cậu bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn không biết no, áo mới mặc đã chật. Hai vợ chồng không đủ gạo để nuôi con liền được bà con xóm làng giúp đỡ, họ xúm vào kẻ ít người nhiều nuôi lớn Gióng.

 

Lúc này, giặc Ân đã đến núi Trâu, tình thế đất nước vô cùng nguy cấp. Ai nấy đều lo lắng, sợ sệt. Vừa lúc đó, sứ giả mang đủ những thứ mà Gióng đã dặn. Cậu bé vươn vai, trong phút chốc đã trở thành tráng sĩ oai phong, lẫm liệt. Tráng sĩ vỗ mạnh vào mông ngựa sắt, ngựa hí vang dội cả một vùng. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm gậy sắt nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phi nước đại, phun lửa xông thẳng vào quân giặc hết lớp này đến lớp khác. Bỗng gậy sắt bị gãy, tráng sĩ liền nhổ bụi tre bên đường làm vũ khí, quất tan tác vào lũ giặc. Thế giặc hỗn loạn, tan vỡ. Đám tàn quân dẫm đạp lên nhau tháo chạy. Tráng sĩ đuổi quân giặc đến chân núi Sóc thì dừng lại, rồi một mình, một ngựa phi lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt rồi bay thẳng lên trời. 

 

Từ đó, để tưởng nhớ công đánh tan giặc Ân xâm lược, nhà vua phong cho tráng sĩ làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay tại quê nhà.

 

Hiện nay vẫn còn dấu tích đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Hàng năm, đến tháng tư, dân làng mở hội linh đình để tưởng nhớ người tráng sĩ Thánh Gióng và để ngắm nhìn những dấu tích mà tráng sĩ đã đánh tan giặc Ân, đó là tre đằng ngà, những ao hồ liên tiếp,...

 

4. Bài văn 4

 

Dưới thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão nổi tiếng hiền lành, chăm chỉ mà chưa có con. Một hôm, bà lão ra đồng ướm thử bàn chân mình lên một vết chân lạ, về nhà liền mang thai đến mười hai tháng mới sinh hạ một đứa con trai khôi ngô. Nuôi đến năm 3 tuổi, đứa bé vẫn nằm một chỗ, chưa biết đi đứng, chẳng biết nói cười, chỉ biết đặt đâu nằm đó.

Gặp lúc giặc Ân quấy nhiễu, vua sai sứ giả đi rao khắp nơi tìm bậc hiền tài ra đánh giặc cứu nước. Nghe tin, cậu bé làng Gióng bỗng bật lên tiếng nói nhờ mẹ mời sứ giả vào cho cậu gặp. Cậu yêu cầu sứ giả xin vua đúc cho ngựa sắt, gậy sắt và áo giáp sắt để mình dẹp tan giặc dữ. Từ đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, cậu ăn mạnh đến nỗi dân làng phải rủ nhau góp cơm gạo đến giúp.

Nhận được đủ đồ dùng vua ban, cậu bé vươn vai trở thành tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Chuẩn bị xong xuôi, chàng lên ngựa, vung roi vun vút. Ngựa phun lửa xông thẳng vào đội hình giặc khiến chúng ngã chết như rạ.

Gậy sắt gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre ven đường làm vũ khí. Quân giặc bại trận, đám sống sót tìm đường lẩn trốn. Tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc, cởi bỏ áo giáp, cả người lẫn ngựa bay vút lên trời cao.

Từ đó, vua Hùng nhớ ơn phong làm Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Từ đó hàng năm vào tháng 4, ở đây hội Gióng được tổ chức tưng bừng, thu hút biết bao người về tham dự.

 

5. Bài văn 5

 

Thời Hùng Vương thứ sáu, ở một ngôi làng nọ có hai vợ chồng ông lão, chăm chỉ làm ăn lại có tiếng là phúc đức, nhưng lại vẫn chưa có lấy một mụn con.

 

Một ngày kia, người vợ ra đồng trông thấy một bước chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà mang thai, đến mười hai tháng sau mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô. Cậu bé ra đời là niềm hạnh phúc to lớn nên hai ông bà mừng lắm. Nhưng chẳng hiểu sao đến khi ba tuổi, cậu bé vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười, đặt đâu thì nằm đó.

 

Cũng năm ấy, giặc Ân sang xâm lược bờ cõi nước ta và gây ra bao nhiêu tội ác. Thế giặc mạnh, nhà vua lo lắng sai sứ giả đi khắp nước cầu hiền tài. Đi đến đâu sứ giả cũng rao:

 

- Ai có tài xin hãy ra giúp vua cứu nước.

 

Nghe tiếng rao, bỗng nhiên cậu bé Gióng cất tiếng nói:

 

- Mẹ ơi, mẹ mau mời sứ giả vào đây cho con.

 

Gặp được sứ giả, Gióng liền yêu cầu sứ giả tâu với vua chuẩn bị gậy sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt để đi đánh giặc. Sau khi gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc xong đã đứt chỉ. Mọi người trong làng đều chung tay nuôi Giống, hy vọng cậu bé lớn nhanh đi giết giặc cứu nước. 

 

Lúc này, giặc đã đến sát chân núi Trâu. Nhận được đồ dùng từ sứ giả, cậu bé bèn vươn vai đứng dậy như một tráng sĩ, khoác vào áo gáp, cầm gậy sắt nhảy lên lưng ngựa phi thẳng tới chiến trường. Bằng sức mạnh như của ngàn người cộng lại, chẳng mấy chốc cậu đã khiến lũ giặc kinh hồn bạt vía. Đang đánh nhau ác liệt thì gậy sắt gãy, cậu bèn nhổ bụi tre bên đường làm vũ khí quật vào lũ giặc. Quân giặc sợ hãi bỏ chạy tán loạn.

 

Dẹp giặc xong, Gióng không quay về kinh ban thưởng mà cởi bỏ áo giáp, một người một ngựa bay thẳng lên trời. Từ đó, vua nhớ công ơn, phong tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương để tưởng nhớ mãi về sau.

 

6. Bài văn 6

 

Chuyện tương truyền rằng: Vào đời Hùng Vương thứ 6, trong ngôi làng nọ có cặp vợ chồng đã lớn tuổi nhưng chưa có được một mụn con. 

 

Một ngày kia, khi đi làm đồng, người vợ thấy một dấu chân rất to. Vì tò mò mà bà đã ướm thử, không biết có phải do trời động lòng thương mà sau đó người vợ đã có mang. Lạ thay, người vợ mang thai tận 12 tháng mới sinh được một cậu con trai kháu khỉnh, khôi ngô. Thế nhưng đến năm 3 tuổi, đứa trẻ vẫn chưa biết đi, không biết nói cũng chẳng biết cười, được đặt ở đâu thì nằm ở đó. Hai vợ chồng buồn bã khôn xiết nhưng không biết phải làm thế nào.

 

Lúc bấy giờ, giặc Ân đang lăm le xâm lược bờ cõi nước ta. Nhà vua lo lắng truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài ra giúp nước. Đến ngôi làng ấy, cậu bé nghe thấy sứ giả liền nói với mẹ:

 

- Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.

 

Nghe tiếng con nói, người mẹ vui mừng khôn xiết, vội vã mời sứ giả vào trong nhà. Gặp được sứ giả, cậu bé dõng dạc nói to:

 

- Sứ giả hãy về tâu với nhà vua, đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một cây gậy sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này.

 

Từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cơm cũng không đủ no, áo mặc chẳng bao lâu đã sứt chỉ. Dân làng chung sức góp gạo nuôi Gióng, chỉ mong Gióng lớn lên có thể cứu dân cứu nước. Ngày giặc tràn bờ cõi cũng đến, Gióng đứng dậy vươn vai trở thành tránh sĩ, nhảy lên ngựa sắt, nhổ bụi tre làng làm vũ khí đánh giặc tan tác. Sau khi giành chiến thắng, Gióng cưỡi ngựa bay thẳng về trời. Để ghi nhớ công ơn của người anh hùng, nhà vua đã lập đền thờ và phong cho ông là Phù Đổng Thiên Vương.

 

7. Bài văn 7

 

Ngày xưa, ở một ngôi làng nọ có hai vợ chồng nghèo hiền lành, lương thiện nhưng mãi không thể có một đứa con. Một hôm, bà lão ra đồng nhìn thấy dấu chân lạ liền ướm thử chân mình vào dấu chân đó. Về nhà, bà liền mang thai. Nhưng lạ thay, 12 tháng sau bà mới hạ sinh một cậu bé khôi ngô tuấn tú. Nuôi đến năm 3 tuổi, đứa bé vẫn nằm yên một chỗ, không biết nói cũng chẳng biết cười. Gặp lúc giặc Ân quấy nhiễu, vua sai sứ giả đi rao khắp nơi tìm người hiền tài ra đánh giặc cứu nước. Nghe tin, cậu bé bỗng bật lên tiếng nói, nhờ mẹ mời sứ giả vào cho mình gặp. Cậu yêu cầu sứ giả xin nhà vua đúc cho mình một con ngựa sắt, một áo giáp sắt và một chiếc gậy sắt để mình dẹp tan giặc dữ. Từ đó, cậu lớn nhanh như thổi, ăn mạnh đến nỗi dân làng phải cùng nhau chung sức nuôi cậu bé. 

 

Đến ngày nhận được đủ lễ vua ban, cậu bé vươn vai trở thành tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Lúc này, giặc Ân đã đến chân núi Trâu. Chuẩn bị xong xuôi, chàng lên ngựa lao thẳng vào đội hình giặc, vung gậy đánh giặc tan tác. Gậy sắt gãy, chàng nhổ bụi tre bên đường thay thế. Đám giặc tàn sợ hãi bỏ chạy, chàng đuổi theo đến chân núi Sóc rồi cả người và ngựa bay thẳng về trời.

 

Sau này, Vua Hùng nhớ công của chàng, phong chàng làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tưởng nhớ tại quê nhà.

 

8. Bài văn 8

 

Chuyện kể vào đời Vua Hùng thứ sáu, tại một ngôi làng nhỏ có đôi vợ chồng già nổi tiếng là hiền lành chăm chỉ, nhưng mãi không có nổi một mụn con. Một hôm, người vợ ra đồng nhìn thấy một dấu chân to kì lạ, bà liền đặt chân mình vào để ướm thử. Không ngờ, về nhà bà lại có thai. Tận 12 tháng sau mới sinh được một cậu bé kháu khỉnh, xinh xắn. Hai vợ chồng mừng lắm. Vậy mà, hạnh phúc ngắn chẳng tày gang. Cậu bé đến năm 3 tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười, ai đặt đâu thì nằm đấy.

 

Lúc bấy giờ, giặc Ân lăm le xâm lược nước ta. Thế giặc mặc, nhà vua vô cùng lo lắng sai sứ giả đi tìm người tài giúp nước. Đến ngôi làng ấy, đứa bé nghe được tiếng sứ giả bỗng cất tiếng nói:

 

- Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!

 

Gặp được sứ giả, cậu dõng dạc nói to: 

 

- Nhờ ông về tâu với nhà vua, làm cho tôi một con ngựa sắt, một cái gậy sắt và một tấm áo giáp sắt. Tôi sẽ đập tan lũ giặc này.

 

Sau ngày gặp sứ giả, cậu bé bỗng lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng không đủ no, quần áo vừa mặc đã sứt chỉ, được cả dân làng cùng chung sức góp gạo nuôi nấng. 

 

Lúc này, giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước nguy cấp, vừa lúc sứ giả mang ngựa sắt, gậy sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé đứng dậy, vươn vai trở thành tráng sĩ. Trang bị xong xuôi, tráng sĩ ngồi lên lưng ngựa, phi thẳng vào chiến trường. Tráng sĩ phi ngựa đến đau, dẹp tan quân giặc đến đó. Khi gậy sắt gãy, tráng sĩ nhanh trí nhổ bụi tre bên đường quật vào quân giặc. Giặc thua cuộc, chết như ngả rạ, đám tàn quân đạp lên nhau mà trốn, bị tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc.

 

Đến đây, tráng sĩ cưỡi ngựa bay thẳng về trời. Vua nhớ công ơn, tôn là Phù Đổng Thiên Vương cho lập đền thờ tại quê nhà. Cho đến nay, tại ngôi làng của ông vẫn còn mang nhiều dấu tích nơi ngựa phi qua để lại và tháng 4 hàng năm, người dân thường tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn của ông. 

 

9. Bài văn 9

 

Từ ngày còn thơ bé, em đã được mẹ kể biết bao truyền thuyết li kì và lịch sử hào hùng. Vì vậy, em đã mang trong mình niềm tự hào và ngưỡng mộ những vị anh hùng trong truyền thuyết dân tộc, và Thánh Gióng chính là một vị anh hùng oai phong như thế.

 

Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nông dân, vừa chăm chỉ làm ăn lại có tiếng là lương thiện nhưng đến lúc sắp về già vẫn không có lấy một mụn con. Một ngày kia, người vợ ra đồng thấy một dấu chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà, bà liền mang thai, nhưng mười hai tháng sau mới sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú, đặt tên là Gióng. Điều kì lạ là đến năm 3 tuổi, cậu bé vẫn không biết nói, biết cười, cha mẹ đặt đâu thì nằm đó, khiến đôi vợ chồng vô cùng lo lắng.

 

Lúc bấy giờ có giặc Ân xâm lược nước ta, nhà vua bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi cậu bé nghe được tiếng sứ giả, bỗng cất tiếng nói đầu tiên: "Mẹ mời sứ giả vào đây cho con". Nghe được tiếng con, người mẹ mừng rỡ mời sứ giả vào nhà. Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua chuẩn bị cho mình một con ngựa sắt, một chiếc gậy sắt và một chiếc áo giáp sắt và hứa sẽ phá tan lũ giặc này. 

 

Từ khi gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm bao nhiêu cũng không đủ nuôi, phải cậy nhà bà con, làng xóm. Ai cũng vui lòng góp gạo nuôi cậu bé, mau cậu mong lớn để giết giặc cứu nước.

 

Khi giặc đến gần bờ cõi, Gióng nhận được đồ vua ban liền vươn vai trở thành tráng sĩ, mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Chàng mặc áo giáp, cầm gậy sắt, nhảy lên lưng ngựa. Chàng thúc ngựa phi thẳng tới chiến trường, đánh tan hết lớp giặc này đến lớp giặc khác. Roi sắt gãy, Gióng nhổ những cụm tre bên đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ, giẫm đạp lên nhau chạy trốn.

 

Giành được thắng lợi, Gióng một mình một ngựa phi lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt rồi bay thẳng về trời. Sau này, vua nhớ công ơn, phong ông là Phù Đổng Thiên vương và lập đền thờ ở quê nhà, nay là làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng.

 

10. Bài văn 10

 

Ngày xưa, vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại một ngôi làng nhỏ có hai vợ chồng già chăm chỉ, hiền lành. Hai ông bà mong ước có được một mụn con. Một hôm, người vợ ra đồng trông thấy một vết chân to, sẵn tính tò mò, bà liền đặt chân vào ướm thử. Không ngờ, về nhà bà mang thai, mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Nhưng kỳ lạ thay, đến năm lên ba mà cậu vẫn chưa biết nói, biết cười, ai đặt đâu thì nằm đấy.

 

Khi ấy, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh, vua lo lắng sai sứ giả đi tìm người tài giúp nước. Nghe được tiếng rao của sứ giả, cậu bé bỗng cất tiếng nói:

 

- Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!

 

Sứ giả vào, thấy một cậu bé thì rất bất ngờ, và càng bất ngờ hơn khi cậu dõng dạc nói to:

 

- Ông về tâu với nhà vua sắm cho tôi một con ngựa sắt, một cái gậy sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này.

 

Càng kỳ lạ hơn, từ sau hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng không đủ no. Hai vợ chồng làm bao nhiêu cũng không đủ nuôi cậu bé, phải nhờ bà con trong làng chung tay góp sức giúp đỡ.

 

Lúc này, giặc đã đến chân núi Trâu, thế nước nguy nan vô cùng. Vừa lúc đó, cậu bé vùng dậy, vươn vai trở thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt, cầm gậy sắt leo lên lưng ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội rồi phun lửa vào đám giặc. Tráng sĩ thúc ngựa phi nước đại, mạnh mẽ đập tan quân giặc. Bỗng gậy sắt gãy, tráng sĩ nhổ cả bụi tre bên đường làm vũ khí. Thế giặc tan vỡ, đám tàn quân bỏ chạy tán loạn, bị tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc.

 

Đến đây, một mình tráng sĩ cưỡi ngựa bay về trời. Nhà vua nhớ công ơn, phong là Phù Đổng Thiên Vương cho lập đền thờ tại quê nhà. Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Những di tích từ cuộc chiến oai hùng của Thánh Gióng vẫn còn lưu lại tại ngôi làng cho đến ngày nay.

 

Trên đây là những chia sẻ của mình về kể lại truyện thánh gióng bằng lời văn của em, cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của mình nhé.

 




HỌC TIẾNG ANH QUA 5000 PHIM SONG NGỮ


Khám phá ngay !