Dàn ý và 20 bài phân tích đây thôn vĩ dạ ngắn gọn và hay nhất
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một kiệt tác của Hàn Mặc Tử, đây là một bài thơ vô cùng lãng mạn nên thường được thầy cô giáo đưa vào các bài kiểm tra. Dưới đây là dàn bài chi tiết và 20 bài mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ được Studytienganh tổng hợp.
1. Dàn ý phân tích bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
Dàn ý phân tích Đây thôn Vĩ Dạ có bố cục chia làm 3 phần chính:
1.1 Mở Bài
Giới thiệu về tác giả và tác phẩm: Hàn Mặc Tử là một cái tên mà có lẽ không ai là không biết khi nhắc đến phong trào thơ mới. Những tác phẩm của ông mang lại nhiều suy nghĩ trong lòng độc giả. Bài thơ khơi gợi niềm sâu sắc nhất và mang lại dấu ấn sâu đậm nhất của thi sĩ chính là bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ. Một bài thơ mang đến như một bức tâm thư thổ lộ những tình cảm thầm kín và khao khát cháy bỏng của một người làm thi sĩ.
1.2 Thân bài
-
Bức tranh tươi đẹp cảnh vườn Vĩ Dạ
“Nắng hàng cau” - màu nắng đặc biệt trong thơ ca của Hàn Mặc Tử. Người thi sĩ này miêu tả một màu nắng đầy mới mẻ, trong trẻo của buổi sáng sớm bình minh nơi xứ Huế yên bình “Nắng mới lên”. Tính từ “Mướt” gợi vẻ đẹp một cách non tơ, mềm mại và đầy sức sống của cây lá.
Mảnh vườn như được đắm chìm trong ánh nắng ban mai, như được chăm sóc bởi bàn tay khéo léo bởi con người thôn Vĩ Dạ mà càng thêm đẹp, đầy sức sống và xanh tươi “xanh như ngọc” .
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của thi sĩ Hàn Mặc Tử
-
Cảnh vật muôn màu tâm trạng và dự cảm chia lìa
Gió và mây là hai vật luôn gắn liền với nhau, luôn bên nhau vì vậy sử dụng biện pháp “gió theo lối gió, mây đường mây” nhấn mạnh sự chia lìa. Sử dụng nghệ thuật nhân hóa “ Dòng nước buồn hiu, hoa bắp lay” điều này khẳng định thêm nỗi buồn giăng kín trong lòng thi sĩ thấm đến từng cảnh vật.
-
Nỗi mong chờ vô vọng của người thi sĩ
Từ “mơ” được sử dụng trong câu và đặt đầu câu càng nhấn mạnh giấc mộng của tác giả về một điều đẹp đẽ hơn. Có thể là sẽ có vị khách nào ghé thăm từ nơi xa đến cùng đồng điệu và tâm sự với kẻ cô đơn trong cảnh bệnh tật này.
Điệp từ “Khách đường xa” lặp lại càng khao khát được gặp gỡ nhưng có lẽ giấc mộng ấy chẳng thể nào thành vì vị khách đã xa lại càng xa hơn nữa.
Dàn ý chi tiết bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
1.3 Kết Bài
Nghệ thuật và nội dung của bài thơ
2. 20 Bài phân tích mẫu ngắn gọn và hay nhất
2.1 Mẫu văn số 1
Hàn Mặc tử là một thi sĩ, là một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Ông cũng chính là người đã từng yêu và có cảm giác dang dở trong tình yêu. Nhưng ông cũng chính là một con người lạc quan và hòa mình vào những cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp.
Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ là tâm sự của ông trước cảnh thiên nhiên thôn Vĩ hùng vĩ cùng với nỗi niềm tâm trạng của mình. Bắt đầu bài thơ với một câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Như một câu hỏi của cô gái đang trách thầm người con trai với niềm mong ngóng, nhớ mong.
Câu thơ bảy chữ vang lên với sáu thanh bằng, từ cuối cùng sử dụng thanh trắc một cách vút lên như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng hơn. Nhưng lại thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối da diết khôn nguôi. Tiếp theo hình ảnh thôn Vĩ Dạ chợt như hiện lên trước mắt nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Chỉ ba câu thơ mà Hàn Mặc Tử đã khắc họa được gần như là hết một vùng thiên nhiên đặc trưng xứ Huế thơ mộng. Mỗi câu thơ tượng trưng cho một nét vé, trở thành một chi tiết sống động và đẹp đẽ của thôn Vĩ Dạ trong hoài niệm. Đầu tiên là vẻ đẹp tinh khôi sớm mai: nắng hàng cau gợi vẻ trong trẻo tinh khôi của một ngày.
Bài phân tích mẫu ngắn gọn và hay nhất của bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử
Câu thơ thứ ba là cảnh vườn tược được tắm đẫm trong nắng mai “xanh như ngọc”. Cảnh vật tuy giản dị nhưng thanh khiết cao sang. Chữ “mướt” còn tác động mạnh mẽ hơn vào giác quan người đọc khiến khu vườn như hiện lên trước mắt người đọc.
Hình ảnh tiếp theo, cành trúc chính là biểu tượng khi nhắc đến nơi này, mảnh đất cố đô ngàn năm văn hiến. Con người dần hòa vào thiên nhiên một cách kín đáo và tao nhã. Nhưng trong những vẻ đẹp ấy lại thể hiện một nỗi buồn man mác thấm vào lòng người. Khổ hai hiện lên với bức tranh mây trời sông nước:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hai câu đầu thể hiện bức tranh xứ Huế: gió thổi, mây trôi, dòng nước lặng thinh và hoa bắp khẽ lung lay. Nét tả thực gợi lên hồn xứ Huế nhưng ngắm kỹ sẽ thấy những sự chia lìa, rời rạc của tạo vật, sự sống hiện lên một cách mệt mỏi, âm điệu trở nên buồn bã.
Đại từ “ai” trong câu thứ 3 thể hiện mơ hồ và xa vắng, con thuyền chở trăng trên dòng sông trở nên mỏng manh như ảo ảnh. “Kịp tối nay” kịp đủ kéo thi nhân về với thực tại, đối diện với nỗi cô đơn của chính mình.
Tín hiệu mong chờ khách tới thăm thật mong manh. Khát khao cái đẹp của tình đời và tình người đều không tránh khỏi những nghi ngờ, băn khoăn:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Hình ảnh “khách đường xa” được lặp lại nhằm nhấn mạnh đó là điều không thể khi khách càng ngày càng xa xăm hơn. Nhà thơ cảm thấy tình yêu và mình đang đi song song với nhau, mãi không cắt nhau được. Vì thế mà mọi hình bóng đều trở nên hư ảo “áo em trắng quá nhìn không ra”. Sắc trắng tinh khôi cứ vượt khỏi tầm tay người thi sĩ. Hai câu kết là lý giải xuất hiện một lý do khách quan.
Câu kết bài đọng lại niềm băn khoăn nỗi buồn “ai biết tình ai” có đậm đà hay không chưa kịp thì đã phai rồi.
Đây Thôn Vĩ Dạ hiện lên hấp dẫn người đọc bởi một vẻ đẹp thơ mộng, đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế - cổ kính nhưng rất tao nhã, cao quý. Gợi lên linh hồn của mảnh đất cố đô nhưng bài thơ này lại không đơn thuần chỉ tả cảnh.
2.2 Mẫu văn số 2
Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được được tác giả cho ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng mong chờ những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn nữ là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.
Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa sâu sắc rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người trong mộng với cùng một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ” đã phát hành. Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi trông ngóng da diết của cô nàng ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì không tồn tại người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy yêu thương ấy đúng là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xốn xang, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.
Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình trong tâm thức. “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Câu thơ này xuất hiện hai từ “nắng”. một chiếc nắng được phát hiện được mô tả “nhìn nắng hàng cau” và một chiếc năng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo lên như trẻ con “nắng mới lên”. Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh. Nó thắp lên trên những hàng cau.
Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Người du khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng tâm thức thì không nhất thiết phải có một cuộc dạo chơi như vậy.
Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạc vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế cho nên tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn vĩ.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, ngạc nhiên. Đã “vườn ai mướt quá” lại còn phát hiện ra cái “mướt quá” ấy là “xanh như ngọc”. toàn bộ đều non tơ, toàn bộ đều xanh tươi, mỗi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không những cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va quệt của những chiếc lá ngọc. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu không giống nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” đúng là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì “vườn ai” đúng là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lý.
Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên – bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền rất có thể không xấu nhưng nhất định đó là khuôn mặt không theo chuẩn mực nét đẹp của người Việt Nam khi đánh giá phụ nữ. cũng có thể có ý kiến lại nói là “mặt chữ điền” là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.
Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, trái đất kỳ lạ. Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã hội ngộ chính mình với khuôn mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế.
Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải quay về là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình tượng “lá trúc che ngang” càng cung ứng cho khuôn mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa đúng là biểu lộ cho người quân tử.
Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho chúng ta ấn tượng về buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lý, trái tự nhiên. “Gió theo lối gió, mây đường mây”.
Câu thơ thứ hai không những là nghịch lý mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng giò để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.
Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi. trải qua cách nói bóng gió, Hàn Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. Đó là một kẻ phụ tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ yêu thương tin tường dại khờ.
Tình nhân trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một trái đất yêu thương mong chờ, khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất ngờ con người ấy bỗng dưng hiện ra thật nhân từ và độ lượng.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là hình tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.
Nhân vật “ai” ở đây chỉ rất có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người ấy đang cắm thuyền ở bến sông để mong chờ lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở trăng về cho nhà thơ tối nay. Đó là sự yêu thương cao quý, là sự thấu hiểu đến tường tận những khao khát của Hàn Mặc Tử.
Thế nhưng chữ “kịp” ở đây lững lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm nay? rất có thể kip và cũng rất có thể không thể kịp nữa… Tối nay là một khái niệm thời gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống của tôi chỉ sót lại những giây phút ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa” Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy “khách đường xa, khách đường xa”. Thế mà, lại có một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của tôi. Con người đó càng lúc càng trở thành xa lạ và càng không níu kéo được nên Hàn lại càng gửi gắm vào giấc mơ. rất có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của Hàn:
“Người đã đi rồi khôn níu lại
Tình yêu vẫn chưa đã, mến vẫn chưa bưa
Người đi 1 nửa hồn tôi mất
1 nửa hồn tôi đến dại khờ”.
Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa sâu sắc trong những giây phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. lúc đầu là hy vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình.
Tiếp theo, Hàn Mặc Tử vô vọng nhìn tình nhân mình như “khách đường xa”. Nhưng cũng liền sau đó, nhà thơ thấy người ấy quay quay về với mình, cô nàng ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ “em” thật giản dị, gần gũi biết bao: “Áo em trắng quá nhìn không ra”.
Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hy vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự vô vọng. Đáng lẽ “áo em trắng quá” thì anh phải nhìn rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không dám nhìn chính vì em quá trong trắng, thanh cao…
Mặc cảm khi yêu thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của tôi, vì thế mà dù nhân vật “em” quay về với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của tôi. Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lý nhân sinh: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:
“Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”
Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng không thể điều khiển được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được “nhân ảnh” chứ không thể là chính người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không chủ động được với chính mình, mình không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của tình nhân.
Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa “nhân ảnh” của nhân vật “em”… Đó là một nhận thức thật chua chát, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây đúng là nguyên nhân khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ vô vọng không tồn tại nơi nào để bám víu: “Ai biết tình ai có đậm đà?”.
Hai đại từ “ai” ở câu thơ này tạo thành nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh có biết tình em có đậm đà không?
Một câu hỏi trong thơ nhưng chứa đựng biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy “mờ nhân ảnh”, càng vô vọng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ vô vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của “Đây thôn Vĩ Dạ” đúng là cảm hứng đau xót về một tình yêu vô vọng.
Mọi sự vô vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu vô vọng của Hàn Mặc Tử lại dạy cho ta giá trị nhân văn cao quý. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu vô vọng.
3. Kết luận
Trên đây là những mẫu phân tích bài Đây Thôn Vĩ Dạ từ Studytienganh. Hy vọng bạn sẽ đạt điểm kiểm tra cao khi gặp phải bài thơ này. Chúc bạn học vui!